Thân phụ: là Nguyễn Ứng Long đỗ Bảng Nhãn năm 1374 đời vua Trần Duệ Tôn.
Nhưng không được trọng dụng vì con nhà thường dân mà lấy con gái tôn thất nhà Trần.
Sau ông đổi tên là Nguyễn Phi Khanh, ra làm quan với nhà Hồ giữ chức Đại lý tự khanh thị lang tòa trung thư, Hàn lâm viện
học sĩ kiêm chức Tư nghiệp Quốc tử giám. (1400)
Thân mẫu: bà Trần thị Thái con gái của quan Tư Đồ Trần Nguyên Đán.
Hai ông bà có năm người con trai là:
Nguyễn Trãi, Phi Báo, Phi Ly, Phi Bằng và Phi Hùng.
o 0 o
Nguyễn Trãi hiệu là ỨC TRAI.
Đỗ Tiến sĩ năm 1400 vừa hai mươi tuổi, giữ chức Ngự sử đài chánh chưởng.
Hai cha con cùng làm quan dưới triều nhà Hồ.
Nhà Hồ (1400-1407) : Hồ quý Ly soán ngôi nhà Trần, có những cải cách táo bạo, nhưng không được lòng dân.
Nhà Minh lợi dụng cơ hội con cháu nhà Trần cầu viện, nêu chiêu bài "phù Trần, diệt Hồ" đem quân xâm lăng Đại Việt
Nhà Hồ thua trận. Vua, tôi bị giặc Minh bắt đưa về Kim Lăng (kinh đô nhà Minh). Nguyễn Phi Khanh chung số phận.
Nguyễn Trãi cùng Nguyễn Phi Hùng theo cha đến tận ải Nam Quan. Lợi dụng lúc vắng vẻ, Nguyễn Phi Khanh rỉ tai Nguyễn Trãi:
" Con là người có học, có tài, nên tìm cách rửa nhục cho nước, trả thù cho cha, như thế mới gọi là đại hiếu, chứ theo cha
khóc lóc có ích gì!". Tuân lời dạy của cha, Nguyễn Trãi dặn dò em tận tụy chăm sóc cha già. Rồi lạy từ biệt.
Ông bị Trương Phụ cùng Hoàng ngũ Phúc giam lỏng ở thành Đông quan.
Nghe tin Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa chống giặc Minh ở Lam Sơn, Ông đến xin ra mắt cùng người em cô cậu là Trần nguyễn Hãn.
Ông trình "Bình Ngô Sách" và được Lê Lợi tin dùng.
Trong suốt 10 năm (1418 - 1428) đánh Minh, Ông vừa là một quân sư vừa là nhà chính trị lỗi lạc, một tay vạch ra sách lược,
sát cánh cùng nghĩa quân cho đến ngày tên lính Minh cuối cùng về nước. Lê Lợi lên ngôi vua hiệu là Lê Thái Tổ mở đầu cơ
nghiệp nhà Hậu Lê đến ba trăm sáu mươi năm (1428-1788).
Sau khi luận công hành thưởng, Nguyễn Trãi được ban quốc tính là LÊ TRÃI tước Quan phục Hầu,giữ chức Nhập nội Hành Khiển
kiêm Lại bộ thượng thư quản công việc cơ mật viện. (thủ tướng kiêm bộ trưởng...?)
Trong thời bình Nguyễn Trãi đã chứng tỏ tài kinh bang tế thế. Sau 20 Minh thuộc lòng dân ly tán, kỷ cương đổ nát, phong hóa
suy đồi, là đám đất màu mỡ cho những phần tử lưu manh, bất hảo, tha hóa... Nguyễn Trãi đã giúp vua Lê ổn định trật tự, tổ
chức lại guồng máy hành chánh, định ra phép quân điền, đặt ra luật lê, sửa sang việc học hành... nhờ vậy xã hội dần ổn
định.
Năm 1433 Thái Tổ băng, con là Thái Tông mới 11 tuổi lên nối ngôi. Đại tư đồ Lê Sát được cử làm phụ chánh, chuyên quyền quyết
định mọi việc.
Năm 1438 tiên sinh dâng sớ cáo lão xin về trí sĩ ở Côn Sơn huyện Chí Linh, Hải Dương.
Tuy đã qui điền trí sĩ, nhưng thỉnh thoảng Ông vẫn được nhà vua mời về triều để bàn quốc sự.
Năm 1439 Vua Thái Tông xuống chiếu mời Ông giữ chức cũ kiêm Trung thư sảnh tri tam quán sự và coi việc quân-dân hai đạo Đông
Bắc (là hai trong năm đạo của cả nước).
Ngày 1-9 năm 1442 vua Thái tôn sau khi duyệt võ ở Chí Linh, ghé thăm Nguyễn Trãi tại Côn Sơn.
Nguyên Nguyễn Trãi có người thiếp là Nguyễn Thị Lộ có tài sắc, được Thái Tôn ban cho chức Lễ nghi học sĩ để dạy các cung nữ
cùng theo xa giá.
Ngày 7-9-1442 trên đường hồi kinh, trời tối phải nghỉ đêm tại vườn vải ở xã Đại Lại, huyện Gia Bình, Bắc Ninh, vua bị
sốt,Thị Lộ hầu hạ bên mình, Thái Tôn chết đột ngột. Tin này được giữ kín đến ngày 9-9 về đến Thăng Long mới cử ai.
Nguyễn Trãi đang ở hai đạo Đông Bắc nghe tin vua mất, vội trở về Thăng Long thì bị bắt.
Đây là cơ hội bằng vàng để phe Nguyễn thị Anh (một trong số năm người vợ của Thái Tôn) triệt hạ để trả thù.
Ông cùng Thị Lộ bị buộc tội giết vua, bị án "tru di tam tộc".
Ngày 19-9-1422 (nhằm ngày 16 tháng Tám năm Nhâm Tuất) Nguyễn Trãi và gia tộc đã bị trảm.
Đến năm 1464, đời vua Lê Thánh Tôn xét nỗi oan của Ông, xuống chiếu tẩy oan.
Ông được truy phong Đặc tiến kim tử Vinh lộc đại phu tước Tán Trù Bá.
Người con trai duy nhất thoát nạn tru di là Nguyễn Anh Vũ được bổ làm tri huyện và ban cho 100 mẫu ruộng để hương khói.
SỰ NGHIỆP:
1.- Là một nhà chính trị - quân sự lỗi lạc:
- Chính sách TÂM CÔNG : chủ trương phối hợp giữa đấu tranh quân sự và tuyên truyền chính trị.
- Dân vận: chú trọng công tác vận động quần chúng ủng hộ tham gia kháng chiến
- Địch vận chiêu hàng: qua thư gởi các tướng nhà Minh,thư dụ hàng binh sĩ địch.
- Kỷ luật, quân lệnh nghiêm minh: - 3 điều răn các quan - 10 điều kỷ luật cho tướng sĩ.
2.- Một nhà văn,thơ đã để lại nhiều tác phẩm rất giá trị cho đến ngày nay.
21.- Tác phẩm bằng chữ Hán:
a- Chỉ còn lại ỨC TRAI THI TẬP gồm 100 bài thơ.
b- Bình Ngô đại cáo.
c- Quân trung từ mệnh tập: gồm 21 bài.
d- Địa dư chí.
22.- Tác phẩm bằng chữ Nôm:
a- QUỐC ÂM THI TẬP: sau vụ án tru di, tác phẩm của Ức Trai tiên sinh bị thất tán. Sau nhiều đời và nhiều người sưu tập, bộ Quốc Âm Thi Tập hiện đang lưu hành gồm 253 bài.
b- Gia Huấn ca: gồm 796 câu.
c- Hỏi ả bán chiếu: 4 câu.
o 0 o
ỨC TRAI NGUYỄN TRÃI
THỜI KỲ BỊ GIAM LỎNG Ở ĐÔNG ĐÔ
(1407-1418)
Lịch sử rạng ngời gương Nguyễn Trãi
Thù nhà nợ nước nặng hai vai
Lời cha mỗi bước còn văng vẳng: "Than khóc ích gì, nhụt chí trai
Con hãy trở về, lo cứu nước
Hiếu-Trung con sẽ vẹn toàn hai
Non sông sạch bóng quân xâm lược
Chín suối lòng cha mãn nguyện cười!"
Nghiêm huấn đinh ninh chẳng dám sai
Lạy cha nuốt lệ buổi chia tay.
Kim Lăng cõi Bắc cha tù tội
Đông Đô thành Nam con đọa đày!
Nước mất nhà tan luôn thúc dục
Lòng trai khắc khoải bấy thu chầy
Mười năm nghiên soạn bình Ngô sách
Minh chủ lòng mong ngóng mỗi ngày.
THAM GIA KHỞI NGHĨA
(1418-1428)
Lam Sơn khởi nghĩa dấy binh oai,
Đâu phải chiều hôm hoặc sớm mai
Khôi huyện quân binh không một lữ
Linh sơn lương thực hết đường xoay
Nhân tài tuấn kiệt trông càng vắng
Vạch kế bày mưu lại thiếu người
Cứu nước nêu cao cờ đại nghĩa
Hội thề nếm mật với nằm gai!
Mười năm nếm mật với nằm gai,
Vận mệnh nhà Nam đã định rồi "Lê Lợi vi quân,thần Nguyễn Trãi"
Lá rừng điềm báo rõ cơ trời!
Chí Nhân thay thế cho cường bạo
Trúc phá,tro bay đã đến hồi
Mã đảo* Liễu Thăng** đầu để lại
Lê Hoa* Mộc Thạnh chạy co vòi.
Vương Thông** cùng kế xin đình chiến
Tuyên Đức*** nghe tin chết lặng người!
Đại Việt bốn bề nay thái vũ
Nhân dân trăm họ sống an vui.
THỜI KỲ LÀM QUAN (1428-1438)
Tấm lòng nhiệt huyết,túi kinh bang
Nợ nước thù nhà đã trả xong
Thời loạn: kiêu hùng tài dũng lược
Lúc bình:lương đống rạng trung cang
Vì dân trăm họ đem điều lợi
Vì nghĩa nghìn đời để tiếng răn
Chúa thánh, tôi hiền lòng những ước
Non sông muôn thuở vững âu vàng.
THỜI KỲ TRÍ SĨ (1438-1439)
Sáu mươi tuổi lão, cáo từ quan,
Vui thú trăng thanh với gió ngàn
Văn nghiệp ngàn năm danh để lại
Võ công muôn thuở tiếng còn vang!
Muối dưa chẳng bận lòng cao khiết
Vinh nhục không dời dạ sắc son
Vung kiếm một thời lưng chiến mã
Trăng tàn chén rượu chuốt đầu non!
CÔNG THẦN BỊ OAN KHỐC
(1442)
Tiên sinh năm ấy sáu mươi ba
Đông-Bắc trọng thần trấn cỏi xa
Núi Chí Thái Tôn đi duyệt võ
Côn Lôn Nguyễn Trãi ở thăm qua
Vua tôi tương kính nên danh phận
Phụ tử chi giao nghĩa đậm đà.
Thị Lộ vua ban chức học sĩ
Sắc nàng cá lặn với chim sa
Cánh bèo ướt đẫm ơn mưa móc
Vườn vải oan khiên một đóa hoa
Khai quốc công thần mang hệ lụy
Ngàn sau oan án vẫn chưa nhòa!
NT2 Nguyễn Hữu Tư
Ghi
chú:
* Mã đảo pha (Mã yên): nơi Liễu Thăng bị chém.
* Cửa Lê hoa nơi Mộc Thạnh đóng quân, nghe tin Liễu Thăng bị giết, Mộc Thanh kéo quân chạy.
** tên các tướng Minh.
*** niên hiệu vua Tuyên Tông nhà Minh.