Chỉ mấy tiếng đồng hồ địch quân ngưng pháo xuống tiểu đoàn cũng đủ cho những người lính của tiểu đoàn 70 Biệt động biên phòng làm được bao nhiêu công chuyện. Nhất là tuyến phòng thủ của đại đội Nhật giờ đây lại rộn ràng khởi sắc hơn lên. Cái không khí chết chóc, ghê rợn và tuyệt vọng đã giảm đi nhiều lắm, khi những căn hầm thấp thoáng nhiều bóng giai nhân Kinh, Thượng.
Đầu tiên, vì không thể ra ngoài hàng rào phòng thủ nên người ta tạm chôn những đồng đội vừa ngã xuống ngay trên giao thông hào để cho không khí bớt thê lương . Kinh nghiệm tối hôm qua đã làm Nhật đau đớn mãi. Tám người lính chỉ trong vài phút đồng hồ vì chôn bạn mà để người khác chôn mình. Thôi thì chôn ngay trên đường di chuyển, đánh dấu bên cạnh mộ một thanh gỗ mới, được gỡ ra từ những thùng đạn pháo binh, ghi vội một cái tên để mai sau còn nhớ. Thế là xong. Ngày nào an bình thì ta dời đi mấy chốc.
Mỗi căn hầm bây giờ không rộn tiếng cười nhưng hình như ấm lại. Cái giá rét của núi rừng, của chết chóc cũng bớt đi phần nào bởi hơi người cùng thở, tiếng đạn bom dù có gầm rú đến đâu cũng sẽ được quên ngay bởi những tiếng thỏ thẻ bên tai.
Hầm của Thượng sĩ Mẫu có lẽ là đông đúc nhất. Sáu bảy đứa con cộng thêm bà vợ đủ cho ông Mẫu không cần hai thằng khinh binh mà ông mới lấy thêm để phòng thủ cho chắc chắn. Thôi để chúng nó trở về tiểu đội cho thêm quân số chiến đấu lại càng hay. Bà Mẫu đã thu vén gọn gàng những đồ quý giá gói đầy một bụng. Bà chuẩn bị để với hy vọng có thể tiểu đoàn cho di tản thân nhân về xuôi thì không mất mát thiệt thòi gì. Gói to quá, cột ngang làm bà như người có mang sắp đến kỳ. Mà giao cho cô giáo Ngọc Anh một nửa thì cô không chịu. Tức quá bà chửi ầm lên.
-Tổ cha con đĩ ngựa, đánh nhau gần chết mà mắc cở gì.
Nhưng cô Ngọc Anh nhất định là không. Tuy người yêu của cô, chuẩn úy Vũ Văn Vinh không có trong tiểu đoàn nhưng còn bao nhiêu bè bạn khác của chàng. Vả lại cô đang sốt ruột bởi không biết thân phận người thương sống chết thế nào nên chẳng để ý gì đến của cải mà bà mẹ cứ lo mất mát.
Được an ủi nhất có lẽ là anh chàng Dương Kế Chí. Khi cô Coi vừa tới, thấy chàng bị thương đau đớn như vậy đã bật khóc ngay, lại còn bà mẹ lúc nào cũng xót xa như chính bản thân bà bị nạn. Không biết vì những lời thỏ thẻ, mơn trớn làm cho Chí quên cả đớn đau, hay sau một ngày cánh tay không động đậy xương bất đầu nối lại với nhau làm cho Chí thấy cứng cáp hẳn ra. Chàng đã lấy lại phong độ, đi lại tự nhiên và hét hò mạnh lắm. Những căn hầm khác cũng chật chội không kém. Mỗi người lính đều đèo theo nào con, nào vợ. Chưa biết tương lai sẽ ra sao chứ cho đến bây giờ - trời sắp tối- vẫn chưa có chuyện gì khó khăn, nan giải.
Chỉ có Chuẩn úy Thanh, Lành và Diệu là không vướng bận thê nhi. Mấy ông này vợ con còn ở miền xuôi nên khỏe lắm. Ấy là nói cả đám thế, chứ thực ra ông Lành tuy lớn tuổi mà vẫn còn chưa vợ. Còn Chuẩn úy Thanh thì mới chỉ có người yêu, còn đang đi học ở một trường nào đó danh tiếng lắm của miền sông Hương núi Ngự.
Buổi chiều hôm ấy, mỗi người đã được ăn một bữa cơm no đủ. Nhật nhìn Trang âu yếm, rồi chàng gắp một khoanh thịt ham to để vào bát của nàng.
-Ăn đi em, cố ăn đi để giữ sức. Chưa biết tối nay rồi sẽ ra sao.
Trang sung sướng vì được săn sóc, chiều chuộng. Nàng cắt khoanh thịt làm bốn, chia đều cho tất cả mọi ngừơi. Chỉ có thế nhưng mọi người ăn ngon miệng lắm vì đang rất đói. Tuy vậy, không ai muốn kéo dài thời gian thú vị này bởi có biết bao nhiêu chuyện phải làm. Ăn xong Trang hỏi Nhật.
-Anh có nghe tiểu đoàn nói gì về Chuẩn úy Vinh không?
Nhật buồn bã khi nghe nhắc đến người thuộc cấp mà chàng coi như em. Chàng hờ hững trả lời.
-Không, chắc là đã bị tràn ngập rồi. Tiểu đoàn đã cho bắn tập trung lên tiền đồn. Lạ một điều là chẳng thấy Vinh gọi lần nào. Không biết rằng còn sống hay đã chết.
Đêm đen chưa xuống hẳn, trăng đã lên rồi. Dù ánh trăng soi sáng lắm nhưng hỏa châu vẫn được bắn lên đều. Nhật lại bảo Trang nằm xuống chiếc giường gỗ của mình. Nàng ngoan ngoãn nằm ngay, xích hẳn vào trong để nhường chỗ bên cạnh cho chàng. Nhưng không, Nhật không nằm, chàng kéo Trang ra và quỳ ngay xuống, chỉ vừa đủ độ cao để được nhìn nàng.
-Em có hối hận khi quyết định ở lại đây với anh để chịu khổ sở như thế này không Trang?
Trang mở to đôi mắt, rồi nàng cười, cố làm vui. Nụ cười tươi như một đóa hoa mà có lần Nhật nghĩ rằng nếu ngửi sẽ có được hương thơm.
-Em không quyết định sai lầm nên chẳng bao giờ hối hận. Người nào không yêu hoặc chưa yêu có thể cho em là ngu đần dại dột. Nhưng mà em thì lại vui vẻ bằng lòng vì em yêu anh, yêu núi rừng, yêu buôn sóc thôn làng nên chẳng muốn rời xa. Bây giờ dù có cho em về thị thành, hay sống cuộc đời nhung lụa, em cũng không thích bằng được làm cô sơn nữ giữa núi rừng, sống đời giản dị. Em có cảm tưởng rằng em không thể rời xa buôn làng, rừng núi. Em đã thuộc hẳn về nơi này, cũng như em đã thuộc hẳn về anh trong suốt cuộc đời này. Từ ngày xưa còn bé cho đến bây giờ em vẫn nghĩ như thế đó anh ơi.
Nhật bàng hoàng vui sướng reo lên.
Anh cảm ơn em biết bao nhiêu cho đủ tấm tình này.
-Sao lại chỉ cảm ơn em, cảm ơn cả anh nữa chứ. Một mình em không thể làm nên một tình yêu vĩnh cưủ, ta tạ ơn đời, ta cảm ơn nhau. Mà anh ơi, đến bao giờ đất nước mới thanh bình không còn chinh chiến nữa. Từ khi khôn lớn đến giờ lúc nào em cũng thấy đạn bay súng nổ. Em luôn nguyện cầu cho đất nước sớm thanh bình để được sống gần bên anh. Anh muốn thế không?
Muốn thì Nhật rất muốn, nhưng mà bao giờ thanh bình thì Nhật đâu có biết. Câu hỏi đã ngoài sự hiểu biết của chàng. Nhưng Nhật cũng nói bừa để an ủi Trang và tự an ủi chính mình.
-Rồi cũng có một ngày đất nước thanh bình . Anh và em sẽ ở lại nơi này. Sống một đời yên vui, thênh thang trong tình yêu đôi lứa, tình yêu đồng loại và thiên nhiên. Anh sẽ bắt chước em làm tất cả những gì để đem đến niềm vui cho mỗi người dân Gia Vực.
Nhưng rồi Việt cộng không để cho Nhật và Trang say sưa mơ mộng nữa. Loạt đạn pháo kích đầu tiên khi đêm vừa xuống làm rung rinh ánh sáng, nghiêng ngả bóng đêm. Có lẽ chúng đã thanh toán xong tiền đồn của Vinh, nên lại dốc toàn lực để tấn công tiểu đoàn. Những trái đạn rơi liên tiếp, không ngừng, chứng tỏ quyết tâm của địch. Đạn rơi nhiều đến độ chàng nghĩ rằng được bắn bởi hàng ngàn khẩu súng.
Nhật cho đại liên bắn quét quanh hàng rào, nhất là những chỗ khả nghi, đề phòng địch có thể đặt chất nổ tấn công như tối hôm qua ở đại đội Một. Nhưng thật không ngờ , đột nhiên tuyến của đại đội Hai lại bùng lên những cột lóe sáng, những tiếng xung phong. Lần này địch quân có kinh nghiệm hơn, chúng thổi những quả đạn B40 vào những lỗ châu mai sau khi lưới chống đạn đã bị cuốn theo tiếng nổ. Chỉ trong vài phút, hằng mấy chục quả đạn bay ra như thế.
Bây giờ tuyến đại đội Hai là cả một biển lửa bốc cao. Nhật thấy hai điểm sáng di động. Đúng rồi, hai chiếc xe tăng còn sót lại, chúng quay ngang, xẻ dọc. Lúc sáng, lúc tối rót đạn như mưa vào những căn hầm trước mặt. Tiếng hô xung phong lẫn trong tiếng nổ tạo nên một âm thanh hãi hùng, dọa nạt. Âm thanh man rợ y như ngày xưa lũ mọi ăn thịt người, hành hạ nạn nhân trong những phim về châu Phi huyền bí.
Thấy một toán lính dồn cứng dưới giao thông hào. Nhật chạy vội ra, gặp Thượng sĩ Đinh Eng. Chàng hỏi ngay.
-Cái gì vậy, lính đại đội nào thế kia?
Định Eng trả lời trong bực tức.
-Đại đội Hai đó Thiếu úy. Tuyến đại đội Hai bị vỡ nên tụi nó dồn sang đây. Thiếu úy Tấn chết rồi, bị một trái B40 chui lọt vào hầm, cháy đen thui. Cả ông đại đội phó cũng chết luôn.
Nhật cảm như có một luồng điện mạnh chạy nhanh qua thân thể. Trời ơi, thiếu úy Tấn chết rồi sao. Chàng nghĩ nhanh đến bà Tấn và bầy con đang đợi dưới tỉnh mà thấy đắng nơi cổ họng. Nhật chạy vào hầm Thượng sĩ Mẫu ngay gần đó.
-Ông Mẫu, ông Mẫu đâu rồi?
Thượng sĩ Mẫu đang ngồi đọc kinh bên vợ con, nghe Nhật gọi giật bắn người lên. Từ cái ngày Nhật xài xể ông vì cái tội ăn bớt gạo của lính, chàng đã quên đi nhưng ông và gia đình vẫn nhớ. Và mỗi lần Nhật sai việc gì là ông làm ra vẻ vôi vàng mau mắn lắm.
Thượng sĩ Mẫu cứ sợ rằng Nhật trả thù nên càng đề phòng bằng cách tích cực vâng lời. Hôm nay, mê mải đọc kinh ông Mẫu quên cả ngoài kia đạn bom gầm réo. Giờ nghe Nhật gọi ông vội chạy ra.
-Dạ, dạ, tôi đây thiếu úy.
-Tuyến đại đội Hai bể rồi, lính tràn qua đại đội mình ở đầy giao thông hào. Ông ra phụ với Thượng sĩ Eng đẩy tụi nó về lại đi. Đù má, lính tráng gì mà chưa chi đã chạy.
Nhật giấu chuyện ông Tấn đã chết để cho Mẫu bớt sợ. Ông chạy đi ngay. Rất may cho ông vừa đi khỏi thì tới lượt đại đội Ba của Nhật nhận pháo.
Oành, oành, oành, oành, oành, oành, oành.
Nhật hét lính bắn vào hàng rào xối xả để chờ chúng xung phong. Lần này, Việt cộng không đặt chất nổ bằng ống TNT dài ở hàng rào như đêm trước. Chúng chắc thận trọng hơn vì đã chết như ngả rạ trong những lần thí quân đêm qua. Nhật cố gắng chờ xem địch quân sẽ giở trò gì và lo lắng không biết hai ông thượng sĩ vừa sai đi có ngăn nổi những ngừơi lính đại đội Hai tràn qua. Nhưng chừng vài phút sau Đinh Eng quay trở lại tìm Nhật. Gặp nhau ông la lớn.
-Thượng sĩ Mẫu chết rồi.
Nhật như không tin ở lỗ tai mình.
-Chết, chết, thật không, chết bao giờ?
Đinh Eng quả quyết.
-Vừa xong, ông nằm kia kìa. Thiếu úy theo tui.
Nhật chạy theo Đinh Eng ngay. Tới nơi Nhật thấy Thượng sĩ Mẫu nằm ngay đơ trong giao thông hào, ngửa mặt lên, nhe chiếc răng vàng ra, mắt mở trừng trừng. Bên cạnh đó ba bốn đứa đang lăn lộn kêu la. Nhật kêu lên.
-Trời ơi, sao lại thế này. Nó pháo trúng ngay đây à?
-Đâu có, Thiếu úy. Ông Mẫu đang xua mấy thằng lính đại đội Hai về. Rủi có một thằng nó cầm quả lựu đạn đã rút chốt rồi mà không dám ném cứ cầm theo. Khi ông Mẫu xua nó trở về, nó sợ quá run tay làm rớt xuống.
Nhật thấy đắng nơi cổ họng. Chàng sợ phải thông báo cái tin kinh khiếp này cho bà Mẫu và mấy đứa con. Có lẽ bài kinh chưa được đọc xong thì ông Mẫu đã theo Chúa đi về. Chàng ngồi xuống ánh trăng soi rõ gương mặt ông và chiếc răng vàng. Nhật đưa tay vuốt mắt cho ông mà đau đớn trong lòng.
Khi đi ngang qua hầm Trần Mẫu, chàng đã nghe tiếng khóc thảm thiết của bà mẹ và mấy đứa con. Nhật đang định leo lên mặt đất chạy qua phía bên kia thì bà Mẫu cũng đã thấy chàng, bà nhào ra ôm lấy Nhật gào to.
-Thiếu úy ơi, Thiếu úy, ông giết chồng tôi rồi. Ông giết chồng tôi. Chồng tôi có làm gì đâu mà ông thù ông oán, ông sai chồng tôi vào chỗ chết, sao ông ác rứa ông ơi.
Càng nói bà Mẫu càng nức nở gào lên thảm thê. Bà như điên cuồng đấm thùm thụp vào ngực Nhật, tru lên uất hận.
Cô giáo Ngọc Anh cố lôi bà ra, vừa lôi cô vừa khóc la bà mẹ, nhưng mà cô bênh vựïc cho chàng.
-Má buông thiếu úy Nhật ra. Má nói chi lạ rứa. Má nói chi lạ rứa.
May cho Nhật, lúc đó tiếng nổ và ánh sáng từ ngoài hàng rào lại lóe lên. Chết, lần này chết thật, chúng nó tấn công rồi. Chàng không có thời giờ để phân trần nữa. Nắm cổ tay bà Mẫu và cô Ngọc Anh, chàng đẩy cả hai vào lại căn hầm, hét lên.
-Không được chạy lộn xộn, chết tới nơi bây giờ.
Tiếng hét của Nhật, chắc chứa đầy uy lực vì làm bà Mẫu và cô Anh ngưng khóc và bắt đầu run sợ. Ánh sáng hỏa châu đã soi rõ những bóng người cùng đóm lửa. Chàng chạy ngay vào căn hầm dài, ở đó hai khẩu đại liên đang thi nhau nhả đạn. Súng cối, súng phóng lựu, súng đại liên, súng cá nhân bắn vào quân địch. Đạn bay đầy trời, rít lên những âm thanh buốt nhói. Đạn xuyên qua hàng rào, hầm hố, xuyên qua những bao cát, xuyên cả qua người đem lại những âm thanh gào rú, hỗn độn, ghê rợn đến rùng mình. Đứa nào chết cứ nằm yên đó, đứa nào bị thương cũng sẽ nằm đó mà chờ chết. Không ai săn sóc, tiếp cứu. Chỉ có tiến lên, tiến lên lấy thân người che kín đường đạn nổ. Địch đã dùng chiến thuật biển người, quyết giành lấy chiến thắng, làm chủ chiến trường.
Đến bây giờ thì những người thân thuộc của lính không thể ngồi yên được nữa. Chúng nó mà vào đây thì lính hay dân cũng chết. Cái gương trên đồi Trinh Nữ năm xưa còn đó. Chỉ còn một con đường chiến đấu đến hơi thở cuối cùng.
Chồng bắn thì vợ và con tiếp đạn. Đôi khi giặc đông quá vợ cũng bắn luôn. Vợ lính thì có lạ gì cây súng. Chỉ vài mươi giây là các bà đã biết cách lắp đạn và bóp cò. Con cái cũng thế. Đứa nào lớn, cầm được súng cũng bắn cho đến khi gục xuống.
Trong hầm Dương Kế Chí có một khẩu đại liên. Thấy thằng xạ thủ chậm chạp chẳng biết nhắm vào đâu, vì mục tiêu di động nhiều quá nên anh chàng lớ ngớ ngẩn người ra. Chí xô nó ra rồi chụp lấy, cái tay gãy tỳ lên bá súng, tay phải bóp cò. Cô Coi ấn cây súng xuống cho nó khỏi rung mạnh làm đau đớn người yêu, và bà mẹ thì nâng dây đạn.
Nhật cũng thủ một cây M16. Chàng chạy từ hầm nọ qua hầm kia mặc kệ cho đạn bay, pháo nổ. Người ta ai cũng phải chết. Nếu chết hôm nay thì khỏi phải đợi thêm vài chục năm sau nữa. Chàng nghĩ thế nên mặc cho số mệnh. Chỉ tội cho Trang và bọn Nhiều chạy theo. Đến hầm của Tống Phước Lành, Nhật chạy ngay vào, chàng thấy Lành đang hò hét, chửi thề văng tục bừa bãi. À thì ra thầy tu, lúc sống chết như thế này, tức quá cũng rất trần tục như ai. Nhật hỏi ngay, pha một chút vui đùa để cố coi thường cái chết.
-Có gì mà thi sĩ bực mình quá vậy. Mấy thằng Việt cộng nó làm ông mệt lắm à?
Lành không trả lời nổi câu hỏi đùa của Nhật. Người của chúng đâu mà đông thế. Bắn chết thằng này lại có thằng khác, y như chuyện này xưa, quân ta chặt đầu Phạm Nhan, chặt hết cái đầu thì nó móc ngay đầu mới. Cứ thế này rồi cũng sẽ đến lượt mình chết. Lành hỏi lại Nhật.
-Tiểu đoàn có xin không quân yểm trợ không? Cứ điệu này thì trước sau gì cũng chết.
Chợt máy PRC25 trên lưng Du lại vang lên, thằng lính truyền tin bên kia khóc hu hu, có lẽ nó sợ quá kêu lên ầm ĩ.
-Thiếu úy ơi, Thiếu úy ơi, thẩm quyền tôi đi phép dài hạn rồi, chết rồi hu hu.
Nhật bỗng rùng mình. Chàng chưa nhận ra tiếng người lính mang máy. Nó lại nói không rõ ràng nên chàng chẳng biết thẩm quyền nó là ai. Nhật hỏi lại.
-Thẩm quyền mày là ai. Bình tĩnh nói, ba mươi tư đang nghe đây.
Tiếng rè rè im bặt, chắc thằng nhỏ đang gặp chuyện gì cấp bách. Nhiều nghe tiếng nó quen quen, sau một lúc suy nghĩ nó nhớ ra.
-Thằng này mang máy cho Chuẩn úy Thanh, chạy tới hầm ông Thanh ngay đi.
Tới nơi Nhật bước vào căn hầm định mệnh. Lỗ châu mai bị bắn trực xạ một trái đạn. Chắc là loại 75ly không giật nên rách nở ra toang toác. Thanh nằm dài trên sàn hầm. Mặt lấm tấm máu bởi ngàn mảnh nhỏ li ti tựa như kim gút. Cả người chắc đầy miểng đạn vì quần áo của Thanh thủng lỗ chỗ như mang lưới. Thấy Nhật cúi xuống. Thanh cố dùng hết sức nắm lấy tay chàng, thu hết tàn hơi.
-Thiếu úy,.. nhớ ông đưa giùm quyển sổ của tôi cho cô ấy.
Nhật chưa kịp gật đầu thì mắt Thanh đã đứng tròng, đầu ngoẹo sang một bên, chàng lần vào ngực Thanh giật lấy tấm thẻ bài ghi số quân và loại máu. Nhật đứng lên, thở dài nói với bọn Nhiều.
-Tội nghiệp quá. Bữa trước tao nghe Đại úy Nghĩa nói ông Thanh sắp cưới vợ, tháng sau là có phép rồi.
Chàng quay qua thằng mang máy.
-Ba lô của ông ấy đâu. Chỉ có mình mày với ông ấy ở đây thôi à? Mấy đứa kia đâu rồi?
Người lính cúi xuống moi ra chiếc ba lô. Nhật đổ tất cả xuống đất và tìm thấy ngay cuốn sổ. Đó là một cuốn nhật ký xinh xắn. Bên trong có hình một người con gái, mặc áo trắng dài, không biết nữ sinh trường nào ngoài Huế. Nhật nhẩm đọc địa chỉ của cô gái. Chàng ngạc nhiên thấy cô ấy cũng tên là Thanh -Nguyễn Thị Thiên Thanh.
Chí cũng chạy tới. Từ khi cô Coi ở chung hầm, Chí yêu đời hẳn lên. Anh chàng quên cả đau đớn, xông xáo hối thúc và kiểm soát lính như không có gì xảy ra. Chiếc tay gãy, được quấn chặt bằng máng gỗ, đeo lên cổ, hình như không vướng bận gì lắm với Chí bây giờ. Nhật đưa chiếc thẻ bài cho Chí rồi bảo.
Cho gói ông ấy lại. Cột thẻ bài vào poncho. Tôi sẽ kiếm cho ông ấy mấy mảnh ván. Bây giờ tôi phải qua phía Đinh Eng xem có ngăn được mấy thằng ở đại đội Hai không.
Trên đường đi tới Nhật được biết tiểu đoàn đã cho cả trung đội trinh sát tăng phái cho đại đội Hai cố đẩy địch ra ngoài. Đại úy Nghĩa cũng yêu cầu Nhật cho một trung đội lấn dần qua. Chàng trả lời.
- Lấn gì được. Con cái thằng Hai nằm đầy trên tuyến của tôi đây, cố đẩy chúng nó về là dư sức tống cổ bọn Vẹm ra.
Suốt một đêm hôm ấy hai bên cứ dằng co qua lại trên tuyến này. Địch quân chiếm được một số hầm bỏ trống vì khi ông Tấn chết, hai ông trung đội trưởng sợ quá bỏ chạy. Bây giờ bắt buộc phải chiếm lại. Chiếm lại khi chúng có chỗ an toàn ẩn nấp là cả một vấn đề. Có một điểm lợi cho bọn chàng là tụi Việt cộng không có xạ trường. Tầm bắn và tầm nhìn của chúng bị giới hạn bởi những giao thông hào và như vậy chẳng khác gì chuột nằm trong lỗ. Chàng bảo lính gọi Đinh Eng tới, Nhật đề nghị ngay.
-Trung đội trinh sát chỉ nằm chận ở phía Trung đội pháo binh. Đầu bên kia là lính đại đội Một của Chuẩn úy Diệu. Bên này là lính của ông. Tội có cách này, không biết ông dám chơi không?
-Cách nào Thiếu úy?
-Ông đi với mấy thằng khinh binh nhanh nhẹn. Mình bắn M79 và tông lựu đạn trước xuống từng hầm, xong là ông cho chúng nó xông vào ngay, bắn chết hết những thằng nào sống sót. Có năm căn hầm thôi, cả hai đầu đều làm vậy thì tụi nó chạy đâu. À mà sao mấy ông trung đội trưởng bên đại đội Hai yếu vậy. Mấy ông ấy đi lính lâu rồi phải có kinh nghiệm chứ.
Đinh Eng thật thà đáp lại.
-Chúng nó chỉ sợ thiếu úy Tấn thôi, tôi biết cả ba đứa. Ông Tấn chết rồi là nó chạy đi, chẳng sợ ai nữa.
Nhật vừa tức vừa buồn cười. Chàng không hiểu sao thiếu tá lại chấp thuận cho ông Tấn đề cử ba ông trung đội trưởng đều là hạ sĩ quan và là người thượng, lấy cớ là Trương Tấn nói tiếng thượng rành rọt. Đi lính, giữ cả trung đội mà chỉ sợ ông đại đội trưởng thôi, thế thì đánh đấm gì. Chàng phải dụ Đinh Eng đánh chớp nhoáng và hứa hẹn bừa.
-Ông cố gắng, chiếm xong hết tuyến, tôi đề nghị thiếu tá cho ông làm đại đội phó đại đội Hai luôn.
Nhật vừa nói đến đây thì thiếu tá tiểu đoàn trưởng và đại úy Nghĩa cũng vừa tới. Hai người đang định bàn với Nhật cho tấn công chiếm những căn hầm vừa mất thì đúng lúc chàng đang nói chuyện với Đinh Eng. Nhật trình bày kế hoạch và đề nghị. Thiếu tá chấp thuận ngay.
Đến mờ sáng thì Đinh Eng chiếm xong chiếc hầm cuối cùng. Thực ra thì Đinh Eng chỉ chiếm có hai cái thôi, còn lại là lính của đại đội Hai và trinh sát. Nhưng mà ông ta là người xông xáo đầu tiên nên thiếu tá Chữ bằng lòng lắm, đặt ông ta coi luôn tuyến đại đội Hai như Nhật đã hứa. Mà nếu không đặt Đinh Eng vào vị trí ấy thì tiểu đoàn kiếm chẳng ra người. Mấy ông sĩ quan tham mưu thì có đó. Nhưng rồi biết các ông có đủ gan để lo nổi việc hay không, vả lại thiếu tá Chữ đã suy nghĩ rồi. Đưa Đinh Eng vào nhiệm vụ này tức là tăng thêm quyền hạn cho Nhật, và cũng là tăng thêm trách nhiệm cho chàng, mà ông thấy không ai thay thế được. Ông cũng khuyến khích Đinh Eng.
-Thiếu tá đưa ông lên làm đại đội phó đại đội Hai. Bây giờ chưa có đại đội trưởng nên để thiếu úy Nhật giúp ông. Khi nào hết Việt cộng thiếu tá sẽ xin cho ông lên Chuẩn úy. Đinh Eng chịu không? Ráng làm việc tốt nhé.
Dĩ nhiên là Đinh Eng bằng lòng lắm và làm việc ngay. Ông la mấy ông Thượng sĩ trung đội trưởng bằng tiếng Hre và ban lệnh bằng tiếng mẹ đẻ của ông luôn. Tình hình yên tĩnh như thế kéo dài đến trưa hôm sau.
Buổi chiều, bước sang ngày thứ ba cộng quân lại pháo ác liệt vào ngay chính trung tâm tiểu đoàn. Lần pháo chính xác này, làm thiệt hại nặng nề cho quân ta phòng thủ. Chuẩn úy Cẩn trung đội trưởng pháo binh bị thương nặng, miểng đạn làm gãy chân phải và xuyên qua bụng. Một trong hai khẩu pháo cũng bị thiệt hại. Đồng thời ngay khi dứt pháo, trời nhá nhem tối, cộng quân tập trung tấn công vào cả bốn tiền đồn phụ một, hai, ba, bốn. Chỉ trong hơn 1 giờ giao tranh, tiểu đoàn không còn liên lạc được với bất cứ tiểu đội nào. Đêm đến đạn 12 ly 8 lại bắn xuống, đạn súng cối B61 và 82 ly nổ liên tu bất tận. Bây giờ địch không tấn công nữa, có lẽ vì đã tổn thất quá nhiều. Chúng chỉ dùng trận địa pháo để thanh toán chiến trường.
Đến nửa đêm, trên tần số đại đội Nhật bỗng được nghe Vinh gọi. Lúc ấy Nhật đang đi một vòng quanh tuyến với Nhiều. Tiếng Vinh gọi rất nhỏ, thầm thì tiếng mất tiếng còn. Điều này chứng tỏ Vinh đang lẩn trốn giữa một vùng mà địch đã bao quanh.
-Trùng Dương, Trùng Dương, đây vẻ vang của tăng gô đống đa trinh nữ goị nghe rõ trả lời.
Nhật chụp lấy ống nghe từ tay Nhiều vội vã úp vào tai. Bên kia Vinh cho chàng biết là đã cùng mấy người lính và cả ông trung sĩ Thế chạy được vào rừng , bây giờ muốn lợi dụng thời gian yên tĩnh này để về lại tiểu đoàn. Vinh cũng cho biết thêm là tiền đồn đã bị tràn ngập ngay chiều hôm đó. Bọn chàng phải chui vào đừơng hầm riêng mới thoát được ra ngoài.
Nhật thành thực khuyên Vinh nên dẫn cả toán về Ba tơ. Đường không xa lắm, hơn hai mươi cây số có là bao. Chàng nói.
Tiểu đoàn đang hứng pháo. Nó bắn ngày đêm, về lại để làm gì, Vinh dẫn anh em xuống Ba tơ đi.
Bên kia Vinh lặng thinh như suy nghĩ, một lúc lâu anh mới trả lời. Lần này Vinh không gọi Nhật bằng danh hiệu hay cấp bực nữa. Anh chàng gọi ngay tên. Giọng cương quyết.
-Anh Nhật à. Tôi phải dẫn anh em về lại tiểu đoàn. Tôi không thể bỏ anh với thằng Chí, thằng Trọng nằm trong đó hứng pháo. Chị Trang là con gái mà còn ở lại, huống hồ tôi là một sĩ quan. Còn Ngọc Anh nữa. Chẳng lẽ tôi không làm được như chị Trang sao?
Nhật không nói thêm, chàng hỏi Vinh độ bao nhiêu lâu nữa thì tới cổng trại. Phải làm sao về tới trước khi trời sáng. Chừng đó chàng sẽ xin mở cổng.
Nhưng khi Nhật báo tin mừng đó lên tiểu đoàn thì không ai mừng cả. Thậm chí Thiếu tá Chữ và Đại úy Nghĩa còn không cho chàng mở cổng vì theo ý hai người, Vinh đã bị địch quân bắt sống chúng đang dùng anh chàng để gài bẫy tiểu đoàn. Có thể địch lợi dụng ta mở cửa, gỡ mìn là ồ ạt xông vào.
Nhật không tin thế. Kẹt một điều là cổng phụ của đại đội đã bị pháo sập từ ngày đầu. Và Vinh không thể theo lối ấy vào được vì có thể địch quân vẫn còn chực chờ ở đó. Chỉ vào bằng cổng chính là dễ che giấu và bất ngờ nhất. Nhất là ban đêm địch không ngờ mà cũng không dễ gì phát hiện.
Chàng lại gọi lên tiểu đoàn xin lệnh một lần nữa. Nhật đem cả sinh mạng mình ra để bảo đảm cho chuyện đón Vinh và thuộc cấp trở về. Cuối cùng thì Thiếu tá Chữ cũng xiêu lòng. Ông đã đo lường được nhiệt huyết và lý tưởng của bọn sĩ quan trẻ. Chúng nó xả thân vì quốc gia, chúng có một tổ quốc, một lý tưởng rõ ràng trước khi nhập trận chứ không như bọn ông, chiến đấu vì không còn chọn lựa nào khác. Ông khuyên bảo Nhật.
-Cứ đúng theo nguyên tắc, sách vở thì chúng ta bắt buộc phải nghi ngờ sự tìm trở lại của Chuẩn úy Vinh. Chuyện đơn giản là ông ấy đã thoát được ra ngoài thì tìm về Batơ dễ dàng hơn trở lại trong này trừ khi bị địch bắt buộc. Hơn nữa trong này địch đang pháo từng giây từng phút ai lại đi tìm cái chết. Nhưng tôi cũng biết là Chuẩn úy Vinh có tư cách và rất có trách nhiệm nên ông ấy sẽ tìm về căn cứ. Mình chỉ không rõ là ông ấy có bị địch ép buộc hay không. Tôi chấp nhận cho Thiếu úy mở cổng nhưng phải đề phòng âm mưu của địch. Phải thật cẩn thận nghe không?
Nhật đi ra ngoài cổng ngay. Chí cũng đi theo, rồi cô Ngọc Anh không biết nghe tin ở đâu, biết được cũng đòi theo ra luôn. Dẫn thêm chừng bốn năm người lính nhanh nhẹn, sau khi dặn dò những điều cần thiết Nhật bảo toán gác cổng mở mìn lần lượt từng khúc một. Mấy lớp ngựa gỗ sau khi gỡ mìn xong, chỉ kéo xích qua một chút để vừa đủ hở người vào. Công việc làm vừa xong thì Vinh gọi bảo đã gần tới cổng.
Nhật dặn Vinh cho từng người lính trở vào. Súng đeo sau lưng. Hai tay giơ cao khỏi đầu để để nhận diện và đề phòng. Bắt buộc phải làm thế bởi vì đó là lệnh. Ai không làm thế sẽ bị bắn liền tại chỗ.
Cả bọn, từng người một làm đúng theo lời Nhật nói. Vinh là người cuối cùng. Tới giao thông hào, gặp Chí, Vinh la lên đùa cợt.
-Anh không chết đâu em.
Ngọc Anh đứng gần đó, đang sụt sùi vì xúc động. Chí thấy thế quay sang cô nàng bảo bạn.
-Nói với tao làm gì, nói với cô này này.
Lúc bấy giờ Vinh mới biết rằng có Ngọc Anh ra đón mình. Chàng ta cảm động quá, ôm chầm lấy nàng. Ngọc Anh càng khóc to hơn.
Nhật cũng đứng gần đó. Chàng đang kiểm soát lại xem những con ngựa gỗ và những trái mìn gài lại đúng chưa. Vinh trông thấy Nhật. Anh chàng buông Ngọc Anh ra chạy đến.
-Anh.
Vinh chỉ gọi Nhật trống không như vậy nhưng Nhật biết là Vinh đã coi chàng thân tình như một người anh trai ruột thịt, tiếng anh không thôi của Vinh đang nói lên điều đó. Nhưng bây giờ không phải là giờ để cho tình cảm và những xúc động tràn ra. Nhật hỏi Vinh.
-Sao mà ông không gọi cho tiểu đoàn hay tôi biết, tưởng ông bị tụi nó nuốt luôn rồi.
Vinh vắn tắt kể cho Nhật và Chí nghe, buổi chiều hôm chúng tấn công sau khi đã pháo hàng ngàn quả đạn. Không căn hầm nào còn nguyên vẹn. Vinh nói thêm.
-Anh biết đấy. Hầm hố ngoài ấy mình chỉ mới làm sau này bằng tay và bao cát. Đâu có chắn chắn như ở tiểu đoàn. Doanh trại lại nhỏ, tụi nó tập trung pháo, chỉ nội 61 với 82 ly cũng đã muốn ngất ngư. Huống hồ cả 122 ly nữa thì cần gì nó phải mò vào. Mình không chết vì miểng cũng chết vì điếc tai ấy chứ. Anh có thể tưởng tượng rằng mỗi trái 122 ly của tụi nó rơi xuống là xúc nguyên một căn hầm của mình lên trời. Người ngợm, súng ống bay theo chiều gió luôn. Tôi cố cầm cự đến xẩm tối, theo đường hầm thoát ra ngoài. Thằng nào còn sống thì gom góp đi theo.
-Thế sao không gọi báo cho tiểu đoàn hay đại đội?
-Máy đâu mà báo. Tiền đồn có hai cái máy thì bị xúc lên trời vì một trái 122 ly rồi. Mãi đến chiều hôm nay mới gặp thằng mang máy của toán kích đêm đi lạc. Gọi mãi về tiểu đoàn mà đâu có ai trả lời. Tụi tôi lo quá. May mà còn nhớ tần số giải tỏa tôi gọi đại.
Bây giờ Nhật mới thấy sự thiếu sót của mình cũng như của tiểu đoàn. . Khi Hoàng ngọc Lê bỏ trốn đại úy Nghĩa đã thay tần số khác nhưng chưa kịp thông báo cho Vinh thì hắn đã bị pháo bật ra ngoài. Rất may là đại đội còn đang dùng tần số giải tòa mà Vinh vẫn nhớ nên anh chàng mò về được. Nhật gọi lên tiểu đoàn và được chỉ thị đưa Vinh về giữ đại đội hai thay thế cho ông Trương Tấn. Nhật biết rằng Vinh sẽ làm được chuyện. Tuy cấp bực nhỏ, và ra trường không lâu lắm, nhưng Vinh có một kiến thức khá và một khả năng đặc biệt về quân đội. Khi xử trí một việc gì Vinh bình tĩnh, xét đoán sâu sắc lắm. Nói sao làm vậy, Vinh đã tạo được uy tín với thuộc cấp. Các ông hạ sĩ quan trung đội trưởng đều nể Vinh ra mặt.
Cứ thế, bốn năm ngày liên tiếp, địch quân không tấn công tiểu đoàn nữa mà chỉ giáng những trái pháo chính xác vào doanh trại.Tổn thất ngày một tăng cao . Điều kiện ăn ở bây giờ thật là tồi tệ. Khẩu phần và nước uống chỉ có thế mà số người lại đông hơn thành ra thiếu thốn. Những xác của địch nằm la liệt ngoài hàng rào không được thu dọn, chôn cất tạo nên một mùi hôi thối khủng khiếp. Mà những xác của đồng đội, vì được chôn nông cạn ở ngay dưới giao thông hào cũng đã rữa nát, ứa ra những vũng nước vàng thấm ướt đường đi.
Cho đến ngày thứ mười hai, tiểu đoàn vẫn không nhận được một sự yểm trợ tiếp cứu nào. Đạn dược, thuốc men, thực phẩm bắt đầu khô cạn. Những công điện cầu cứu khẩn cấp liên tiếp đánh đi mãi cũng chỉ nhận được những lời hứa suông. Tuy thế, trong căn cứ việc phòng thủ vẫn được cũng cố chặt chẽ. Các đoạn công-xẹc-ti-na bị chất nổ cuốn đứt, được thay thế ngay bằng đoạn khác hoặc kéo dài ra. Hầm hố thường tu sửa lại, mỗi ngày một chắc chắn. Ai cũng phải lo lấy cho mình.
Đêm thứ mười hai địch quân lại tấn công, cũng vẫn cứ chiến thuật cũ tiến pháo, hậu xung. Địch gởi thêm xác chết lên hàng rào phòng thủ. Đặc biệt lần này chúng bắc loa kêu gọi những người lính buông súng đầu hàng sẽ được bảo toàn mạng sống. Mặc kệ, đánh giặc bây giờ không còn là nhiệm vụ của những người lính nữa. Đàn bà, con gái, thậm chí cả trẻ con đều thành thạo xử dụng những khẩu M16. Đứa con út của Thượng sĩ Mẫu mới có mười một tuổi mà đã biết mở súng ra từng bộ phận để lau chùi. Nó còn hiểu rõ cả cơ hành vận chuyển của khẩu súng đến độ nếu có trở ngại tác xạ là nó sửa đuợc ngay. Vô tình quân số phòng thủ từ một tiểu đoàn tăng lên gấp bội. Tiếng loa kêu gào mặc kệ tiếng loa. Những người lính và thân nhân của họ cứ bắn và chỉ bắn cho đến khi gục chết.
Đến đêm thứ mười ba địch tấn công dữ dội quá. Từ mờ tối địch đã pháo tập trung vào doanh trại rồi mở những đợt xung phong liên tiếp. Mười ba ngày cầu cứu, cầm cự để đợi chờ tiếp cứu mà không được một hy vọng gì đã làm thiếu tá tiểu đoàn trưởng thất vọng rồi thành ra tuyệt vọng. Binh sĩ, dân chúng chết dần mòn trong trận địa pháo của địch, chết dần trong đói khát và bệnh tật. Rút lui thì không còn lối mà cứ mãi thế này thì sẽ chết hết. Khi một quả đạn 122ly rơi trúng vào một căn hầm tập thể của đại đội Hai, làm chết luôn một lúc hai mươi ba người vừa lính, vừa dân lành thì vị tiểu đoàn trưởng bắt đầu hỏi ý kiến tất cả các sĩ quan. Ông muốn kéo cờ trắng đầu hàng để cứu lính, cứu đân.
-Các ông thử giúp tôi tìm xem có cách nào hay hơn thế không? Đạn dược không còn nữa, lương thực trống không. Tụi nó pháo, bắn thẳng từ các tiền đồn xuống mà mình thì không thể chống trả được .Chỉ có cách đó mới cứu được người dân. Giá quân khu cho mình một chút hy vọng thì mình còn có chỗ để mà bám víu. Đằng này không có gì, một trại sáng cũng không chứ đừng những thứ khác.
Không ai trả lời người tiểu đoàn trưởng đáng thương ấy. Giữa sự sống và chết, lòng con người dù sắt đá cũng muốn được sống thay vì phải chết. Nhưng có một điều ít ai biết được là có sống với cộng sản thì có lẽ khốn khổ hơn là phải chết.
Trang rất rõ điều này. Từ kinh nghiệm bản thân, gia đình Trang biết rằng, dù có đầu hàng cộng sản thì mọi người cùng đều phải chết. Nàng đã thấy rõ tận mắt kẻ thù đối xử với cha nàng. Những điều ấy dù được kể lại vẫn có những người không tin, chỉ vì họ không lường được sự độc ác của con người, của một chế độ phi nhân.
Kinh nghiệm từ bản thân Trang cũng là kinh nghiệm cho Nhật học được bởi vì người con gái ấy bây giờ -nói theo lời kinh thánh cũ- đã là một phần thân thể của chàng rồi.
Nhật hỏi riêng ý kiến các sĩ quan thuộc cấp của mình. Hầu hết mọi người đều xác định rõ ràng rằng họ chiến đấu đến giờ phút cuối cùng. Nhật gọi ngay lên tiểu đoàn và được sự đồng tình trong vui mừng của đại úy Nghĩa: chiến đấu đến hơi thở cuối cùng.
Ngày thứ mười bốn địch tạm ngưng tấn công, chỉ pháo tập trung nhưng đến đêm thứ mười bốn địch lại tấn công dữ dội. Không hiểu quân số có bao nhiêu mà lúc nào chúng cũng ồ ạt tiến vào.
Đến gần sáng, một tia hy vọng chợt lóe lên. Chiếc phi cơ C47 mang biệt danh Hỏa Long, thả những trái sáng đầu tiên xuống chiến trường. Những trái sáng được thả từ máy bay to và sáng, chiếu rọi lâu hơn những trái sáng được bắn từ dưới đất làm tinh thần binh sĩ phòng thủ tăng cao.