Câu chuyện ghi lại giai đoạn từ 30/4/75 đến thời điểm có chương trình HO.
Một cảnh đời bi thảm sau cuộc chiến. Người đàn ông bị tập trung cải tạo, đói khát, bệnh tật, lao động khổ sai, không ngày về. Người đàn bà ở nhà với đàn con dại, bị phân biệt đối xử, phải lao vào đời để kiếm miếng ăn. Những phản trắc, lọc lừa, ngoại tình, xác thịt, được viết một cách trung thực với đầy đủ vóc dáng và nhân diện của từng nhân vật. Trong truyện còn ghi lại một thời buổi nhiễu nhương của đất nước trước và sau 30/4/75, các tướng công sứ quân cát cư từng vùng. Tôn giáo, Đảng phái, Sinh Viên học sinh tranh đấu rồi Hộ khẩu, lý lịch, tham ô, hủ hóa.
* * *
Chương Hai Mươi Mốt
Buổi học cuối cùng của lớp bồi dưỡng không có gì vui. Không khí im lìm, u uất. Chỉ có cô giáo Hoan là còn xăng xái chạy chỗ nọ, chạy chỗ kia, để phân công anh chị em giáo viên làm một bữa liên hoan nhỏ, bữa tiệc chia tay. Số giáo sư cũ của các trường trung học - bây giờ tất cả giáo sư trung học, giáo viên tiểu học đều gọi chung là giáo viên - đa số đều có dây mơ rễ má với chế độ cũ. Họ là cha, là chồng, là con, là anh em của những nhân viên, công chức, sĩ quan quân đội cũ, nên ai cũng có thái độ dè chừng. Không muốn hăng hái xông xáo như những kẻ “cách mạng ba mươi”, vì ít ra họ cũng còn cái sỉ diện của kẻ sĩ, nhưng sợ bị chú ý nên họ cũng vỗ tay, cũng dơ tay phát biểu, cũng cười nói hỉ hả. Nhưng khi ngồi một mình họ lại trầm ngâm.
Giáo sư Quát, đại học sư phạm, từng dạy đệ nhị cấp trường trung học tỉnh lỵ về môn lý hóa, là người hăng hái thứ nhì sau cô Hoan. Quát không kết án chế độ cũ nhiều, nhưng trong cách làm việc và ăn nói, lúc nào Quát cũng tỏ ra tiến bộ, năng nổ.
Buổi tiệc liên hoan chỉ có bánh ngọt và nước trà. Mọi học viên đều được phát giấy Chứng Nhận. Tấm giấy chỉ là một tờ pơ luyatrắng, được đánh máy bằng loại máy chữ cổ điển. Thế mà Giấy Chứng Nhận này quan trọng vô cùng. Các giáo sư cũ muốn dạy lại ai cũng phải qua cửa ải này.
Hiệu trưởng trường Trần Cao Vân là một người đi tập kết về, ông ba Phát. Ông đứng lên phát biểu. Trước tiên ông lấy gương sáng của Hồ Chí Minh ra làm kim chỉ nam và bắt đầu tràng giang đại hải về người giáo viên nhân dân. Sau đó là ông tuyên dương các cá nhân xuất sắc trong lớp học.
Có ba người là cô giáo Hoan, thầy Quát và một nhân viên làm việc tại văn phòng. Những tiếng vỗ tay cộng với tiếng lạch phạch của chiếc quạt trần tạo nên một chuỗi âm thanh lạc lõng.
Đến phần văn nghệ, một ai đó đề nghị Nại Hiên lên hát. Nại Hiên chợt nghe tim mình thảng thốt. Hát gì đây? Những bài tình ca cũ làm sao hợp ở đây. Một thời đứng trên sân khấu cũng tại trường này, trong những đêm văn nghệ, nàng đã hát Cánh Hoa Thời Loạn, Cánh Hồng Trung Quốc, Cô Gái Mường Luông. Bây giờ thì phải theo thời, phải hát Cô Gái Sài Gòn Đi Tải Đạn, Chiếc Khăn Tay, Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây, Cô Gái Vót Chông…Làm sao nàng có thể hát những bài hát đó. Nại Hiên đứng lên từ chối những lời yêu cầu. Có những tiếng xì xào đâu đó.
Buổi lien hoan kéo dài đến mười một giờ trưa. Trời nắng gắt. Nại Hiên chào một vài người bạn rồi bước ra cửa. Nàng định đạp xe xuống mua cho các con ổ bánh mì, mua cho bà Khai gói thuốc Cẩm Lệ rồi về nhà sớm. Nàng bước qua văn phòng định chào mấy chị làm việc ở văn phòng thì thấy anh Tư Lộc đứng dưới hàng hiên đợi nàng.
Thấy Nại Hiên, anh Tư Lôc lên tiếng ngay:
-Hứa với dì là đến thăm dì lần nữa mà anh bận công tác quá, hôm nay mới đến được. Biết hôm nay là ngày kết thúc của khóa học nên anh phải tranh thủ.
Nại Hiên cũng thấy vui vui. Trong mấy ngày qua theo lớp học bồi dưỡng này, đầu óc nàng khô rang và tẻ lạnh. Tự nhiên, nàng muốn biến đầu óc nàng thành vô thức, không tiếp thu một cái gì mới nữa. Mỗi lần lên lớp, việc đầu tiên của các giảng viên là chữi ngụy, chữi vô tội vạ, rồi khi vào bài giảng, gặp được đoạn nào nói về chế độ cũ thì mọi tội vạ đều được đem ra khai thác, khiến cho người nghe chỉ muốn “điếc” tai luôn.
Bây giờ gặp lại anh Tư Lộc, nàng thấy mình như gặp được một chút hơi ấm gia đình. Học ở đây bốn tuần, sáng đạp xe đi chiều đạp xe về, hai bận là mười sáu cây số, nàng thấy mông mình tê đi, riết rồi không còn cảm giác. Những người bạn cùng dạy học ngày trước, ngày trước sao mà xôn xao chào mời nhau, bây giờ gặp lại nhau chỉ hỏi nhau vài câu xã giao lấy lệ, rồi ai cũng rút về thế giới của riêng mình. Nàng không đến thăm ai và cũng chẳng có ai mời nàng. Những quán chè, quán cà phê, một thuở học trò nàng cùng bạn bè đến đó, nay nàng cũng thấy xa lạ đi. Nàng xếp hết lại những thân quen cũ. Đạp chiếc xe đạp cà tàng, ăn cơm đem theo mỗi buổi trưa. Tự dưng nàng thấy mình như tách rời ra hẳn đám đông này.
Nại Hiên vừa cười vừa trả lời anh Tư Lộc:
-May mà anh đến kịp chứ không em đã về rồi. Em định ra phố mua ít đồ cho con và cho bà nội mấy đứa. Có lẽ mai hay mốt là em về lại trong quê.
-Bởi vậy nên anh mới đi tìm dì. Thôi mình ra ngoài đường kiếm cái quán mình ăn cái gì đi, anh cũng đói quá rồi. Cũng mười một giờ rưởi rồi đó chứ còn sớm siết gì nữa.
Nại Hiên đồng ý. Hai anh em đạp xe lên đường Trần Dư, thấy có quán đề Mì Quảng, nàng đề nghị:
-Vào đây đi anh, ăn mì Quảng đi, lâu quá em cũng thèm ăn mì Quảng.
Hai người dựng xe đạp bên ngoài rồi bước vào trong. Quán trông thật sơ sài. Một vài người đang ăn. Nại Hiên ngồi vào một cái bàn vuông, trên để một số vật dụng như tiêu, ớt, nước mắm. Anh Tư Lộc hỏi:
-Em ăn gì?
Nàng bất cười đáp:
-Đây là quán mì Quảng thì vào đây chỉ có ăn mì Quảng thôi. Em ăn mì gà.
Kêu món ăn xong, ông Tư Lộc trầm ngâm một hồi lâu rồi mới nói:
-Anh muốn nói với em một chuyện quan trọng về việc xin dạy lại của em. Anh đã liên lạc với đồng chí hiệu trưởng trong ấy. Cũng nhờ chỗ quen biết cũ, nên anh nhờ ổng giúp đỡ. Cũng thật khó. Em biết lý lịch của em rất đen, tất cả đều làm bên chế độ cũ, nhất là chồng em, thằng Soại là sĩ quan chiến tranh chính trị, lại được đào tạo chính quy ở trường Đà Lạt ra, nên điều đó rất khó khăn. Anh cố vận động mãi ông hiệu trưởng mới chịu cho em về làm ở văn phòng, không được đứng lớp. Như vậy tạm thời cũng ổn. Em làm việc một thời gian, nếu em làm tốt, tư tưởng tiến bộ, sẽ được đề bạt dạy lại, vậy anh báo cho em biết, cũng là một tin mừng.
Nại Hiên nghe ông nói, tâm trạng nàng đi từ cảm giác này qua cảm giác khác. Nàng nghe tim mình rúng động. Điều nàng sợ nhất là nàng không được dạy lại. Qua lớp học, nàng mới thấy rõ sự hận thù và chia biệt đối xử giữa hai chế độ còn quá nặng nề. Không như nàng tưởng, hết đánh nhau là hòa bình, là xây dựng, là hòa hợp nhau để cùng chung sống hòa bình. Cái hố ngăn cách một ngày một sâu thẳm, đến độ nàng rùng mình khi nghĩ đến những hận thù bên này đối với bên kia vẫn còn cao chất ngất.
Khi nghe anh Tư Lộc nói nàng bị điều về làm ở văn phòng, nàng như nín thở. Nhưng rồi nàng cũng thở phào ra. Nàng chấp nhận và có chút vui mừng nữa. Ít ra cũng còn được đi làm để nuôi con.
Hai tôi mì được bưng lên. Tô mì nghèo nàn thấy rõ. Không một con tôm, một chút thịt. Chỉ có đậu phụng giã nhỏ và những tép mỡ rang vàng. Ông Tư Lộc cầm đủa lên, rồi nói:
-Em ăn đi, ở bắc về, mong ăn một tô mì Quảng cho thật ngon, cho đã lòng ao ước, cho đỡ nhớ quê. Nhưng rồi về ăn tô mì như thế này, cũng hết đi nỗi nhớ quê.
Ông cầm đôi đủa xốc vô tô mì trộn đều. Nại Hiên cũng bắt đầu ăn. Mùi bắp chuối xắt nhỏ với rau tần ô nghe thoảng hương thơm dễ chịu. Tuy không có tôm thịt nhưng tô mì ăn cũng ngon miệng vì nước nhưn ngọt và nàng thì quá đói bụng. Nàng nhìn ông Tư Lộc ăn. Ông thật già rồi. Tuổi ông khoảng đâu trên dưới năm mươi mà trông ông hom hem thấy rõ. Bộ quần áo bộ đội bùi nhùi, chiếc nón cối, cái xắc-cốt, cặp kiếng đen. Đó là mốt của cán bộ “cách mạng” bây giờ. Ít ra, ông đã đi tập kết, đã mấy mươi năm tuổi đảng, ông cũng được giữ một chức vụ cao hơn chứ không phải là làm trưởng phòng thông tin thị xã.
Chợt Nại Hiên nghĩ đến mấy tháng trước đây, hồi còn ở Sài Gòn, nàng và Soại đi dạo ở đường Lê Lợi thì bỗng gặp Nam. Nam là bạn cùng lớp với Soại hồi trung học. Nam có người anh đi tập kết. Gặp Nam, cũng hơn mười năm mới gặp lại, tay bắt mặt mừng. Soại và Nại Hiên hỏi thăm sức khoẻ, tình hình chính trị chung chung, đến lúc hỏi về anh Phục, anh của Nam, đi tập kết ở bắc, nay thế nào? Nam huênh hoang:
-Anh Phục hiện làm vụ trưởng vụ đối ngoại thuộc bộ Ngoại giao, ngang hàng với thứ trưởng.
Nghe Nam nói xong, Soại vội vã bắt tay Nam để đi. Đi một quãng xa, anh mới nói với Nại Hiên:
-Bây giờ ai có bà con xa gần với cách mạng cũng đều lôi ra mà khoe, hồi trước khai lý lịch thì dấu như mèo dấu cứt.
Nhìn anh Tư Lộc ăn tô mì ngon lành, Nại Hiên nghĩ tới Soại và thấy ân hận khi quyết định trở về. Mình đã không nghe lời anh ở lại Sài Gòn để về đây dở sống dở chết. Nàng nhìn anh Tư Lộc một lần nữa. Một đời theo đảng để bây giờ câu nào anh nói ra cũng đầy vẻ chua cay.
Nại Hiên nói:
-Em cảm ơn anh đã giúp đỡ em. Không có anh chắc em lọt sổ rồi.
Ông Tư Lôc bộc bạch tâm sự:
-Anh mấy mươi năm đi tập kết về, anh chẳng làm được gì cho vợ con, còn sức giúp các em được chút nào hay chút đó. Đời nào cũng vậy em à, có quyền thì có đủ mọi thứ thôi. Nhưng anh thì bây giờ không có quyền gì, chỉ còn chút uy tín với đám cán bộ cấp dưới, là anh mang danh đã đi tập kết. Mai mốt nghỉ hưu là hết.
Nại Hiên cảm thấy ngậm ngùi. Nàng chạnh nghĩ đến anh Toàn, anh Đạt, anh Học, những người anh ruột nàng, một thời trai trẻ đam mê lý tưởng, nổi trôi vào guồng máy chính trị miền Nam. Bây giờ tất cả đều vào trại tập trung.
Nại Hiên muốn nói thêm một lời cảm ơn anh tư Lộc, nhưng nàng thấy nó cũng trở thành khách sáo. Điều anh Tư Lộc giúp nàng ở đây, như ngày xưa mẹ nàng đã cưu mang đùm bọc mẹ con chị Loan, ngày anh Tư Lộc trốn gia đình đi tập kết. Có phải đây là một món nợ được anh Tư Lộc trả lại cho nàng không?
Khi hai người đứng lên rời khỏi quán thì nắng bên ngoài đã gay gắt quá. Nàng lấy cái mũ lác đội lên đầu, che miệng bằng khẩu trang, chào anh Tư Lộc rồi đạp xe đi. Con đường Trần Dư đã mấy mươi năm rồi vẫn chưa tráng nhựa.