Câu chuyện ghi lại giai đoạn từ 30/4/75 đến thời điểm có chương trình HO.
Một cảnh đời bi thảm sau cuộc chiến. Người đàn ông bị tập trung cải tạo, đói khát, bệnh tật, lao động khổ sai, không ngày về. Người đàn bà ở nhà với đàn con dại, bị phân biệt đối xử, phải lao vào đời để kiếm miếng ăn. Những phản trắc, lọc lừa, ngoại tình, xác thịt, được viết một cách trung thực với đầy đủ vóc dáng và nhân diện của từng nhân vật. Trong truyện còn ghi lại một thời buổi nhiễu nhương của đất nước trước và sau 30/4/75, các tướng công sứ quân cát cư từng vùng. Tôn giáo, Đảng phái, Sinh Viên học sinh tranh đấu rồi Hộ khẩu, lý lịch, tham ô, hủ hóa.
* * *
Chương Mười Bốn
Bà Khải, mẹ Soại là một người đàn bà nhà quê lam lũ. Bà sống với cánh đồng, với thửa ruộng, với đám khoai từ thuở còn là con gái. Bà đã trải qua bao nhiêu chế độ. Chế độ nào bà cũng là người dân tay lấm chân bùn bình thường. Nhưng rồi hai đứa con trai của bà lớn lên đi lính, đóng ở cùng nơi chi xứ, bà lo lắng cho hai đứa con trai nên bà cũng mong cho phe quốc gia được thắng trận. Nhưng không may cho bà, phe Quốc gia thua trận, các con bà thất tán mỗi đứa mỗi nơi. Bà một mình trong căn nhà tranh lạnh lẽo. Đứa con gái lớn có nhà gần chợ Quán, thỉnh thoảng ghé thăm mua cho bà con cá, miếng thịt. Còn thì bà cứ rau dưa hàng bữa. Bà sống âm thầm như một cái bóng.
Từ ngày tháng ba, những người trên núi về đây lập chính quyền, kêu gọi dân chúng đi dân công phá mìn, khai thông đồn bót. Những người bạn với Soại, cùng sĩ quan như Soại, đều bị bắt, dẫn lên núi, nhốt đâu trên Tiên Lãnh, một nơi tuốt trên núi cao rừng rậm. Bà lo cho hai con bà, thằng Giang, thằng Soại, tụi nó chạy vào Sài Gòn có bình an không? có thoát được cảnh đi gỡ mìn, lấp hầm chông như ở đây không?
Bà thương mấy đứa cháu nội của bà còn nhỏ dại quá, đứa nào cũng còn quá bé bỏng mà mẹ nó làm nghề giáo không biêt có đảm đương, nuôi nổi tụi nó không? Tuy nhiên, bà còn giận con vợ thằng Soại lắm. Ngày bà ra Đà Nẵng thăm hai vợ chồng nó, nó cứ cầm cái chổi quét nhà, hể bà để cái món đồ gì của bà ở đâu, khi bà lấy đi thì nó cầm cái chổi mà quét, coi bà như một bà nhà quê dơ dáy. Bà đã gom hết áo quần của bà lại, rồi đi ra bến xe để về lại trong quê. Sau đó Soại có về xin lỗi bà nhưng bà chỉ giận con vợ nó thôi chứ bà đâu có giận đứa hai con trai mà bà đã đứt ruột đẻ ra, và bà cũng biết là tụi nó cũng thương bà hết mực.
Bây giờ là tháng sáu ta, gió hiu hiu thổi trong những lùm tre tạo ra những âm thanh rì rào êm ả. Mặt trời chói lóa, toả sáng cả một không gian rộng lớn. Những con chim giồng giộc làm tổ treo lòng thòng trên những ngọn cây cao, chim giồng giộc cất tiếng kêu vang cả một góc vườn. Một buổi sáng miền quê yên tỉnh.
Bà Khải đang lom khom tưới những luống cải bà mới gieo hôm kia. Tánh bà không ở không được. Từ một cô thiếu nữ ở nông thôn, bà quần quật ngoài đồng ruộng suốt cả ngày, bà quen với công việc đồng áng nên nay cũng gần bảy mươi tuổi rồi mà bà không ngồi không. Không làm việc này bà cũng làm việc nọ, kiếm thêm miếng rau cải ăn cho nhẹ bụng. Bà lo chăm sóc mấy luống cải mới gieo. Chung quanh vườn, tiếng chim kêu ríu rít trong những tầng lá rậm, chim chuối, chim sâu, chim chìa vôi, chất mào, quành quạch, nhảy nhót trong ánh nắng chan hòa buổi trưa. Bà Khải chợt nghe tiếng xe đạp chạy vào trong sân và tiếng trẻ con tíu tít.
Con Anh Thư nói:
- Chào bà nội, con mới về.
Rồi tiếng con bé Đông Nghi tiếp theo:
- Bà nội, bà nội.
Nại Hiến bước xuống khỏi chiếc xe đạp thồ, một tay nàng bế Anh Chi, một tay mở ví lấy tiền trả tiền xe. Xong nàng mới chào bà Khải:
- Thưa mẹ, con mới về.
Bà Khải dừng tưới rau, thả chiếc gàu xuống đất, rồi bước vào sân. Bà vui vẻ nói:
- Nhà Thư về đó hả, vậy mà tau lo quá, không biết mẹ con bay bây giờ ở đâu? Có chuyện gì không? sao lại về đây con?
Nại Hiên muốn nói hoàn cảnh của mình, của các con, của Soại, nhưng thấy bây giờ chưa tiện nên nàng nói lãng ra:
- Vô nhà đi mẹ, đứng ngoài này nắng quá.
- Thì con vô trước đi, để tau rữa chân đã rồi vô sau.
Nại Hiên đi vào trong nhà, nàng kéo cánh cửa bằng tre từ trên sập xuống, loại cửa này có từ xưa lắm rồi, được đan bằng tranh, cột từ phía trên, khi mở cửa thì chống lên, khi đóng thì sập xuống. Nàng bước vào trong, căn nhà tối thui và ẩm. Cái bàn thờ bên giữa, đèn sáng hiu hắt lộ hình ảnh ông Khải, tấm hình được vẽ, lấy mẫu từ tấm hình căn cước khi ông chết để lại. Nàng cũng thấy lòng mình cũng lạnh nguội như mùi ẩm thấp của căn nhà. Nàng chống cửa lên và mở cửa sổ cho gió thông vào. Căn nhà, khu vườn, nàng nghe Soại kể nhiều lần, trong ký ức về một mảnh vườn đẹp, có hồ nuôi cá, có cây dừa dăng bóng, cây dâu đất chín vòng đỏ cả gốc, cây bòng, cây chanh. Nàng đã về đây hồi chiến tranh một lần với Soại, lúc đó căn nhà bị xe thiết giáp ủi sập, chỉ còn là một cái nền nhà loang lỗ. Căn nhà này bà Khải mới dựng lại trong ba tháng nay, để có chỗ, theo bà, mà chui ra, chui vào.
Cái lạnh của căn nhà làm Nại Hiên ái ngại. Mình sẽ ở đây sao? Các con mình rồi sẽ ngủ ở đâu, ngoài một cái giường dành cho bà Khải. Căn nhà không có gì cả, trống trơn, rồi lấy gì sống đây?
Bà Khải rửa chân xong, bước vô nhà, bà vẫn đi chân đất, chỉ khi có khách khứa hay có đi đâu xa, mà mới mang giày hoặc dép chứ ở nhà là bà đi chân trần. Quen rồi, mang dép vào nghe nó vướng vướng làm sao. Bà ngồi xuống chiếc giường rồi nói với Nại Hiên:
- Tau nghe tụi bay bình yên là tau mừng, mi cũng chạy vô Sài gòn rồi trở ra hả, đời chi nghe cực quá he!
Nại Hiên nói:
- Con về được một tuần rồi mẹ. Anh Soại ở lại trình diện trong đó, anh Giang cũng vậy, mấy anh con cũng ở trong đó chứ không ai dám về ngoài nầy, ai cũng sợ về địa phương. Con thì ở bên ngành giáo dục, nghe thông cáo bảo về dạy học lại nên con dẫn mấy đứa về, vào trường xin thì ông Hiệu trưởng ổng biểu phải đi học bồi dưỡng chính trị ở Tam Kỳ một tháng, nên con phải về đây nhờ mẹ.
- Nhờ cái chi?
- Thì con gởi mấy đứa nhỏ ở đây, con đi học bồi dưỡng một tháng, con mượn chiếc xe đạp của chị Kim sáng đi chiều về, được không mẹ?
Bà Khải ôn tồn:
- Con cứ coi nhà này như nhà con vậy, có chi đâu, mẹ với cha sống với nhau hơn năm mươi năm, bao nhiêu dành dụm cũng cố gắng dành cho các con, nhưng không may chiến tranh làm tiêu tan cả. Căn nhà này cũng chỉ còn trơ cái nền, mẹ mới làm lại để có chỗ chui ra chui vào. Bây giờ thằng Soại đi học tập, con về đây ở với mẹ là mẹ mừng lắm, sớm hôm mẹ con có nhau, có mấy cháu mẹ cũng vui, có cơm ăn cơm có cháo ăn cháo.
Nại Hiên nghe bà Khải nói là thấy lòng mình dịu lại, nàng tự trách mình ngày trước khi nàng sống ở Đà Nẵng với Soại, mỗi lần bà ra thăm con, thăm cháu, có nhiều điều vì nàng kỹ tính quá làm cho bà buồn giận, bỏ về quê. Nàng vẫn đinh ninh trong lòng bà sẽ giận nàng chuyện đó. Nay nàng trở về trong sự thất thế như thế này, nếu bà xua đuổi thì nàng cũng không có gì phiền trách, tính đàn bà thường hay nhớ dai, nhưng nay nàng đã trút đi được cái lo ấy. Nại Hiên cầm lấy bàn tay nhăn nheo của bà Khải, nàng lí nhí trong miệng:
- Con cảm ơn mẹ, anh Soại đi cải tạo con mong ảnh về sớm, nếu được ảnh về đây, con đi dạy có chút lương, ảnh về làm ruộng thêm mình sống qua ngày cũng được, mẹ ha?
- Con nói vậy mẹ cũng vui, mong cho các con có cái ăn, cái mặc, chứ đời mẹ già rồi sống sao cũng được.
Nại Hiên không dám nói thêm, sợ động đến tấm lòng của bà Khải, hai đứa con đi lính và nay cả hai cũng đang trong diện tập trung. Nàng đứng dậy, nói nhỏ:
- Hôm nay con nấu cơm cho mẹ nhé, mẹ ngồi nghỉ đi, con biết chỗ để gạo rồi. Nấu cơm và luộc rau lang ăn mẹ nghe, con lâu rồi không ăn rau lang cũng thèm lắm.
Nàng xuống bếp nhúm lửa, vo gạo. Cái nhà bếp là một chái tranh che ra ngoài, một đống tro ủ than lửa đỏ, một cái bộ kiềng ông táo bằng sắt đặt trên bếp than, bên ngoài là vò nước lạnh, có cái gáo dừa móc trên một cành cây, mấy cái nồi, niêu, soong, chảo, mắc linh tinh trên tấm phên tre. Cuộc sống thật bình dị, nếu chấp nhận thì cũng dễ dàng.
Chị hai Kim, chị của Soại, nghe tin Hiên dẫn cháu về thì tất tả đạp xe vào thăm. Dáng chị tất bật trông rõ khổ. Chồng chị đi lính địa phương quân làm việc ở chi khu, nay đang đi dân công gỡ mình đâu trên rừng núi Phước Long. Anh nhắn về là công việc không có gì nặng nhọc và nguy hiểm cả, nhưng chị vẫn lo. Cả Hựu cũng đi lính chi khu, giải phóng về, cả Hựu ra trình diện bị đưa đi phá đồn bót, gỡ mình, cũng trên miệt Tiên Phước, chẳng may gặp mình nổ tung banh xác. Mà đâu có kêu kiện được ai. Thời buổi giao mùa đen trắng chưa rõ, lòng người cũng sống theo thời, gió chiều nào xuôi chiều đó cho yên.
Nay nghe tin Nại Hiên về, chị liền vô thăm để hỏi thăm tin tức của Soại. Một lòng nhất quyết không cho Soại về đây trình diện, dù sao trong Sài Gòn cũng đỡ hơn ở quê.
Chị Kim để xe đạp ở ngoài cổng rồi hấp tấp đi vào trong nhà. Bà Khải đang ngồi ăn trầu ở trên chiếc chỏng tre kê ngoài mái hiên. Nơi đây, bà thường nằm nghỉ buổi trưa. Gió mát hiu hiu, nhiều lúc bà ngủ luôn một giấc đến chiều. Tuổi già, bây giờ bà sống an phận, trồng rau rác trong vườn để lấy rau ăn. Buổi chiều bà đi ra chợ Quán bán thuốc rê kiếm chút tiền lời mua cá thịt. Còn gạo, nước mắm, than củi thì có chị Kim lo. Bà cũng an phận, chứ ngồi nhà mà nhớ hai thằng con trai đang đi cải tạo ở nơi chốn nào bà không biết, cũng làm bà buồn khổ nát lòng ra. Thì đi ra ngồi ngoài chợ buôn bán chút đỉnh, nhìn người qua kẻ lại cho vui, chớ ngồi nhà, nghĩ đến con là bà khóc.
Nghe toếng xe đạp chạy ngoài đường, bà Khải biết chị hai Kim vào, bà nhìn ra thì chị hai Kim đã vào đến sân nhà. Từ ngoài, chị Kim nói lớn vào trong:
- Mẹ con con Hiên về đó hả? Về được đây là mừng rồi, chứ nghe nói ở Sài Gòn, Long Khánh đánh nhau dữ dội, chị lo quá.
Nại Hiên đang lui cui dưới bếp, nàng đang vo gạo nấu cơm. Khi bắc nồi cơm lên ông lò xong, nàng lau tay rồi đi lên nhà trên.
Nại Hiên nói:
- Chào chị hai, em và mấy cháu về trong ngoại tuần nay, hôm nay mới về thăm bà nội.
Chị hai Kim hỏi dồn:
- Em về còn thằng Soại, thằng Giang ra sao? Nghe nói họ chiếm Sài Gòn 30/4, chị lo quá, không biết tụi bay chạy vào đó có bình yên không?
Nại Hiên nói với vẻ dè dặt:
- Em về vì ở trong đó nghe thông cáo ở đài phát thanh nói công nhân viên chức ai về nhiệm sở cũ sẽ được thu dụng lại, em nghĩ mình đi dạy có tội tình gì đâu nên em về. Em đã trình diện trong trường em, ông hiệu trưởng bảo em phải đi học khóa bồi dưỡng về chính trị rồi mới xét.
Chị Kim tỏ vẻ lo lắng:
- Em cứ theo học đi, nhưng chị nghĩ cũng khó. Cô Lan, vợ anh Biền, đại uý cảnh sát, ảnh đi học tập ở Tiên Lãnh, cô Lan ở nhà đi học bồi dưỡng xong về mà họ cũng không cho đi dạy lại. Thành phần mình bây giờ khó lắm.
Nại Hiên vẫn còn chút tin tưởng nên cố gắng trả lời, nàng nói như nàng đang cổ động tinh thần cho chính mình.
- Dù gì thì em cũng về rồi, họ bảo sao mình làm vậy, em nghĩ là em chỉ đi dạy chứ có tham gia chính trị chính em gì đâu, với lại em có bằng Đại Học Sư Phạm.
Chị Kim không muốn bàn ra làm cho Nại Hiên lo lắng thêm. Chị nói:
- Chị nói vậy thôi chứ em đi học bồi dưỡng cứ đi. Bây giờ em tính sao?
- Em tính em đi học dưới Tam Kỳ bốn tuần lận, em nhờ mẹ coi dùm mấy cháu cho em, chị cho em mượn chiếc xe đạp, em sáng đi chiều về, cũng cực nhưng em cố gắng, chứ biết làm sao!
Chị Kim:
- Đi về hàng ngày cũng cực lắm, nhưng mà em đã quyết như vậy thì cũng được, xe đạp chị có hai chiếc, em cứ lấy một chiếc mà đi.
Nghe chị Kim nói vậy, Nại Hiên cũng thấy nhẹ người. Một chiếc xe đạp bây giờ còn quý giá hơn chiếc honda ngày trước nhiều, nếu không có chiếc xe đạp thì nàng cũng chẳng biết xoay xở ra làm sao, mà mua một chiếc xe đạp bây giờ cũng rất khó, tiền bạc đâu có để mà mua.
Chuyện trò xong Nại Hiên xuống bếp nấu cơm tiếp. Chị Kim chạy ra chợ mua miếng thịt heo nhỏ, bà Khải ra vườn hái đọt lang vào luộc. Bữa cơm đạm bạc nhưng ai ăn cũng ngon miệng, có rau lang luộc chấm nước mắm cá nục và ăn với thịt heo ba chỉ. Nồi cơm trắng nấu bốn lon gạo mà ba người lớn và hai đứa con nít đã ăn hết sạch. Cơm ngon thì ngon nhưng nghĩ đến sức ăn như thế này, trong thời buổi gạo châu củi quế, làm ra bát cơm để ăn được cũng khó lắm.