Truyện ngắn "Em Mắt Biếc" là một trong 25 truyện ngắn viết về tuổi thơ trong tuyển tập truyện ngắn "Rớt
Xuống Tuổi Thơ, Tôi" của bạn Trần Yên Hòa. Đây là một tác phẩm mới của bạn Hòa vừa được giới thiệu đến với bạn đọc gần xa.
Bìa trước
Bạt
Ai cũng có một nơi chốn sinh ra. Dù ở nhà quê hay phố thị, thì đó là nơi cất dấu những kỷ niệm của đời mình nhiều nhất.
Có thể thời gian qua đi, ta quay quắt sống với cuộc đời, với xã hội, ta bon chen với cơm áo gạo tiền nên những hình ảnh cũ tạm thời lắng
xuống lòng mình. Đến một lúc, những vật lộn với cuộc đời đã qua, nằm gát tay lên trán trong những đêm trằn trọc ngủ không được, mới thấy
nổi nhớ nhung khôn nguôi về một thời thơ ấu. Bây giờ thì quá xa, có với tay níu bắt cũng không được nữa rồi, nó trở thành những bóng hình
của ký ức.
Tôi đã có một thời ấu thơ như thế.
Ký ức là những mảnh vụn, có lúc rời rạc, có lúc nối kết thành một xâu chuổi trong tâm thức tôi, đánh động tôi viết nên những giòng này, như
tri ân một quê hương đã mất, đã mù xa.
Tôi xa quê năm mười sáu tuổi. Thật ra thì chiến tranh và cuộc sống xô đuổi tôi đi. Chiến tranh thì ai không sợ, mà chiến tranh đã xuất phát từ
vùng quê. Một đêm tối trời đang ngủ ngon giấc với giấc ngủ trẻ thơ, bỗng có tiếng đập cửa, tiếng nhiều người hét lớn, “mở cửa, mau mở
cửa.” Mẹ tôi quýnh quáng thức dậy thắp ngọn đèn dầu, rồi ra mở cửa. Những bóng đen nói, “ai có trong nhà thì thức dậy hết để kiểm tra”.
Chúng tôi phải bước ra khỏi giường, phải sắp hàng ngồi dưới đất để nghe những lời thuyết giảng. Rồi cha tôi bị bắt đi sau đó.
Sau đó là những tiếng súng nổ, tiếng hô xung phong. Mẹ tôi đã khóc ngất, tôi đã khóc ngất. May mà cha tôi được trở về, nhưng đó là lần đầu
tiên tôi biết về chiến tranh, về tiếng nổ của súng và lựu đạn, về những tiếng la hét của những người trong bóng đêm. Tôi đã sợ hãi nên những
năm sau đó phải rời xa quê.
Cho nên trong tập truyện này, tôi cố viết về chuyện trẻ con, về tuổi ấu thơ, nhưng dù cố gắng bao nhiêu đi nữa cũng mắc vào cái nhìn của
người lớn, là tròng vào đầu trẻ con những suy nghĩ người lớn. Tuy nhiên, là những truyện có chút thật bên trong, nên tôi nghĩ mình cũng chưa
đi quá đà.
Con nít hồi xưa khác xa con nít bây giờ. Con nít ngày xưa ở quê tôi tìm không ra quả bóng “tơ nít” bỏ đi, để đem ra đồng đá bóng, mà phải
kết quả bóng bằng lá chuối khô, hay lấy quả “bòng” nướng lên cho dẽo, để đá khỏi bể. Đồ chơi trẻ con không có, chỉ tự tạo, được cái gì chơi
cái đó, như tự làm ná cao su bắn chim, lấy đất sét làm tượng con trâu, con bò, con chim, con cá…
Bây giờ thì ê hề, trẻ con muốn gì thì cha mẹ sắm cho cái đó. Tuy nhiên, suy cho cùng, trong cái thiếu thốn đó cũng có những cái thú vị, đi
chân đất cũng thú vị, để đầu trần dang nắng giữa trưa cũng thú vị, hái ổi trộm cũng thú vị lắm chứ sao không?
Đây là thời kỳ còn non tơ, tươi rói, chưa biết yêu là gì, chỉ có những rung động đơn phương nho nhỏ như dây đàn bung lên nhè nhẹ, rồi thôi,
nhưng là thời kỳ đáng nhớ nhất, đẹp nhất của cuộc đời.
Mới đầu tôi muốn ghi nhan đề quyển sách là Bóng Sắc Ấu Thơ. Tôi muốn dùng chữ Bóng Sắc, vì trong những truyện, tuy là truyện trẻ con,
nhưng cũng có một chút hình bóng của sắc dục. Nhưng nghĩ lại thì không ổn, không nên, nên tôi dùng nhan đề nhẹ hơn là Rớt Xuông Tuổi
Thơ, Tôi.
Vì là một truyện kể, như là đang ngồi với một người bạn, người cùng quê, cùng xóm, cùng làng năm xưa, bên tách nước chè, tách trà, tách cà
phê…hay nhậu lai rai ba sợi… kể lại cho nhau những chuyện nho nhỏ nơi miền quê mình đã sống, chuyện thuở ấy, xa tít tắp, năm, sáu mươi
năm…Kể lại, rồi mình như đã bị rớt xuống quá khứ, rớt về quá khứ…Như anh với tôi, chị với tôi, em với tôi, ngồi đối diện nhau…nhìn lại một
thời...
Viết đến đây tôi tự dưng nhớ một bài thơ của Huy Cận, bài tựu trường. Bài thơ này chị hai tôi đã đọc cách đây năm, sáu mươi năm, vào
những buổi trưa, trời nắng chang chang. Chị nằm tòng teng trên cái võng treo giữa mấy cành cây trong vườn, mà ngâm nga, câu thơ bay trong
gió, đi theo tôi mãi đến bây giờ:
Giờ nao nức của một thời trẻ dại!
Hỡi ngói nâu, hỡi tường trắng, cửa gương!
Những chàng trai mười lăm tuổi vào trường,
Rương nhỏ nhỏ với linh hồn bằng ngọc...
Sắp hạnh phúc như chương trình lớp học,
Buổi chiều đầu họ tìm bạn kết duyên;
Trong sân trường tưởng dạo giữa Đào viên;
Quần áo trắng đẹp như lòng mới mẻ.
Chân non dại ngập ngừng từng bước nhẹ
Tim run run trăm tình cảm rụt rè
Tuổi mười lăm gấp sách lại, đứng nghe
Lòng mới mở giữa tay đời ấm áp.
(Huy Cận)
Mắt biếc năm xưa nay đâu, cánh sao còn đây tóc mây nào bay. Phố vắng mênh mang mưa rơi, người xa vắng rồi /Ngô Thụy Miên.
Năm khoảng tôi mười một, mười hai tuổi, tôi thấy thương thầm nhớ trộm một cô bé học trò dưới tôi hai lớp. Đó là “em” Tuyền. Tuyền học lớp
ba, tôi học lớp nhứt. Tuyền là em gái thằng Đông, học cùng lớp với tôi. Thằng Đông thì tôi chấp. Học dở mà cái mặt lúc nào cũng cân cân.
Nó chỉ tội nghiệp khi có giờ toán đố của thầy giáo Khâm. Thầy giáo Khâm thường ra bài toán “đố mẹo”, và ai làm bài nộp trước sẽ được cho
điểm mười. Những lúc như vậy tôi thường hay lấy tay che bài tôi làm, vì sợ tụi bạn “cóp dê”. Tôi giỏi “toán đố” nổi tiếng ở lớp.
Lúc ấy thằng Đông nhìn tôi khuôn mặt như méo.
-Nhị, mi xích tay ra cho tau dòm chút coi.
Tôi liền ra giá:
- Tau cho mi coi với điều kiện ngày mai tau ghé nhà mi chơi.
-Ừ, gì cũng được, xích tay lẹ lên.
Tôi xích tay cho hiện ra một lỗ trống, để thằng Đông ngồi sát bên tha hồ cóp.
Bài toán đố ra đề chưa đầy mười phút là bài của tôi đã xong, tôi liền chạy lên bàn thầy Khâm nộp. Thằng Đông cũng xong nhưng nó do dự
chưa nộp vì sợ bị thầy kêu lên giảng bài toán. Giảng bài toán mà ú ớ trong khi trong vở bài giải quá hay thì “lộ tẩy” liền. Nó dốt toán nhưng
khôn vặt, biết lượng tài cao thấp, nó chỉ đợi khi nhiều học trò lên nộp thì mới đem bài lên. Cuối giờ toán, tôi được điểm mười, còn thằng Đông
điểm tám, vì nó copy “nửa nạc, nửa mỡ” bài của tôi. Như vậy là tôi có một niềm vui nhỏ: Ngày mai sẽ xuống nhà nó, có dịp “nghía” em
Tuyền. Thằng này khờ học nhưng chuyện “canh me” đứa em gái thì rất kỷ. Nó thường hù dọa những thằng bạn toan tính “thả dê” em nó là sẽ
“đánh chết bỏ”. Nhưng với tôi thì nó còn lợi dụng copy toán, nên nó nới tay lỏng hơn.
Thằng Đông, thằng Nguyên là con ông bà Lẹ. Gia đình nó rất cơ cực. Ông Lẹ đi thồ từ trên “nguồn” Cẩm Y về chợ Quán Rường. Ông làm
nghề đi thồ từ đời cố hỷ nào tôi không biết. Ông Lẹ có chiếc xe đạp được ráp bằng hàng Pháp chính hiệu con nai vàng nên rất chắc chắn.
Cái dàn, cái râng, cái vỏ, đều là thứ tốt số một. Cái “baga” lớn phía sau cột thêm miếng gỗ dày, rồi cột thêm một cây gỗ dài xuyên qua sườn
xe hướng lên trời để làm trụ đẩy. Đi thồ hàng ở mạn nguồn phải đẩy qua những cái dốc cao. Thời gian này có một số bạn hàng là các chị lớn
ở quê tôi, chuyên môn đi buôn nguồn, chị hai tôi cũng ở trong số đó.
Ông Lẹ cha thằng Đông, cha con Tuyền, làm nghề chạy xe thồ. Đoạn đường đi từ chợ Quán Rường lên Cẩm Y phải qua một cái dốc cao
gọi là dốc Eo Gió. Đứng trên dốc này có thể nhìn xuống thấy biển Tam Ấp, nghe gió thổi lồng lộng. Gió thổi có thể thổi “bay” cả người. Cho
nên cái dốc này là “sát thủ” của dân xe thồ. Chất trên xe nào là những buồng cau, những buồng chuối, những bao tiêu, bao chè nặng chình
chịch, mà phải đẩy qua con dốc Eo Gió này thì thật là le lưỡi. Thế mà ngày nào ông Lẹ cũng phải đẩy một xe đầy hàng thì đúng là vất vả.
Ông làm từ ngày này qua ngày khác, tháng này qua tháng khác, năm này qua năm khác, để nuôi thằng con đi học chỉ chuyên “cọp dê”.
Thằng Đông, thằng Nguyên có căn nhà ngó ra khu đồng Cát. Con Tuyền em kế thằng Đồng trông thật là xinh. Tôi mười hai tuổi mà tôi thấy
lòng hồi hộp mỗi khi nhìn thấy con Tuyền ngồi đánh thẻ. Con Tuyền thường hay bận bộ đồ cặp màu tím hoa cà. Màu tím nhẹ nhàng cùng
những chấm đen li ti. Nhìn nó đánh thẻ, nhảy dây hay tập múa, tập hát, tôi thấy con Tuyền có một sức thu hút lạ lùng. Nhìn chung bọn học trò
con gái cũng chạc tuổi nó, đứa nào cũng lấm lem, có đứa còn mũi dãi lòng thòng. Mấy nhỏ học trò nhà quê này thường bận áo quần màu đen
hay xám, nên trông càng u tối, trong lúc “em Tuyền của tôi” thì bận cặp đồ màu tím hoa cà nên trông “sáng” hẳn lên một góc trời. Có lẽ vậy,
nên khiến tâm hồn tôi chao đảo, tôi chỉ còn một cách là tiếp cận thằng Đông, dơ cao tay cho trống chỗ để thằng Đông cọp dê bài toán đố, để
nó được điểm tám. Tôi được cái là buổi chiều ghé chơi nhà nó để bắn bi, và để “nghể” em Tuyền.
Có một điều là em Tuyền có đôi mắt đẹp não nùng. Đôi mắt em lớn với đường lông mày là liễu cong cong. Đôi mắt đã hớp hồn tôi trong
những lúc đi trên sân trường bất ngờ gặp em đi ngược chiều. “Một đôi mắt đẹp”. Tôi đã đọc trong nhiều tác phẩm, các nhà văn nói đến, đó
là đôi mắt phượng, mắt lá liễu, mắt như thuyền, nhưng tôi đơn giản hơn và học trò hơn, gọi đó là đôi mắt biếc, như nhạc sĩ NTM sau này có
bản nhạc Mắt biếc. Mắt biếc là mắt xanh thẳm, sâu hun hút, huyền mơ, buồn vời vợi. Dù “mối tình đầu” đó của tôi, tôi chỉ là chú học trò khờ,
đứng “ngẩn” trông với áo tiểu thư, nhưng nó đã theo tôi mãi, đeo đẳng mãi tôi hình ảnh “một đôi mắt”.
Tôi là thằng nhát như cáy. Học lớp nhứt trường làng mà tôi rụt rè quá. Tính nhút nhát không cho tôi tiến xa hơn trong việc tôi chinh phục em
Tuyền. (và có lẽ em lúc này cũng mới mười, mười một tuổi, đâu có biết gì!)
Buổi chiều hôm đó tôi đến nhà thằng Đông chỉ một việc là chơi bắn bi với nó. Tôi bắn bi cũng thuộc loại cừ, loại chì, loại số dách. Bi là
những viên tròn ve chai đủ màu sắc. Con nhà quê nên tôi đâu có tiền nhiều mà mua bi. Tôi để dành đâu mấy đồng bạc lẻ, nhịn ăn quà vặt, tôi
ghé quán bà Nhẫn mua mấy viên bi. Mua mấy viên bi mà tôi nghĩ mình đã làm một việc tày đình, lớn lao lắm, cũng là “dân chơi phố thị” lắm.
Thực ra bọn nậu chợ như thằng Nam, thằng Thanh có cả hàng chục viên bi đủ màu sắc óng ánh. Tụi nó chơi bi xả láng, như sau này tôi thấy
mấy người đánh bạc ở các sòng bài, các casino, họ xếp tiền lại thành từng cọc rồi “táp pi”. Tôi thì “nhát gan con thỏ đế” và nghèo tiền, nên
tôi chỉ mua được ba viên bi thôi, nhưng tôi cũng hung hăng con bọ xít, dấn thân vô hang cọp là xuống nhà thằng Đông rủ nó chơi bi. Nó là một
thằng bắn bi sừng sỏ nhất trường. Bởi vì tôi cũng tin ở tài bắn bi của tôi. Dù học cùng lớp nhưng tôi chưa bao giờ đọ sức cùng nó. Tôi nghĩ
nếu tôi có ba viên bi mà tôi ăn cả chục viên bi của nó, thì con Tuyền chắc chắn là sẽ nhìn tôi “lé con mắt” luôn.
Trò chơi đánh bi - là chúng tôi đào một cái lỗ, rồi cùng vạch một hàng kẻ ngang, cách cái lỗ khoảng ba mét. Thằng đi trước sẽ nhắm cái lỗ mà
bắn. Có hai cách bắn bi là dùng bàn tay trái hoặc phải, tay nào thuận với mình, đặt ngón cái xuống đất làm điểm tựa, rồi tay kia cầm viên bi,
đặt vào ngón trỏ hoặc ngón giữa rồi nhắm bắn. Cách thứ hai là bắn ngữa, nghĩa là để bàn tay nằm ngữa, dùng ngón tay trỏ cong lại, đặt viên bi
giữa ngón tay trỏ và ngón tay cái, nhắm cái lỗ mà thảy viên bi. Cách này nhẹ nhàng hơn, có nhiều đứa bắn rất nghề, bắn như “để”. Phải canh
me sao cho viên bi lọt vào lỗ. Thường thường những viên bi đầu chưa vào lỗ hẳn, chỉ gần kề hoặc xa. Ai bắn bi gần lỗ hơn sẽ được tiếp tục
bắn, có thể nhắm viên bi của đối phương mà bắn cho văng ra xa, nhiều cú bắn mạnh, viên bi đối phương có thể bị vỡ, người thắng có thể tiếp
tục cho viên bi của mình vào lỗ, thế là thắng. Cái sướng nhất của thú chơi bi là bắn được viên bi của đối phương lăn ra xa, hay thú hơn nữa là
bắn trúng viên bi đối phương, nghe cái “cốc” rồi viên bi bể ra làm nhiều mảnh.
Tôi và thằng Đông chơi ngang cơ nhau, nên gần hai tiếng đồng hồ quần thảo trên chiếc sân đất nhà nó, tôi cũng mê đi, không biết có em
Tuyền ở trong nhà không, chẳng thấy bóng dáng em đâu, nhưng tôi không ân hận vì sau trận đấu, tôi tóm được cũng gần bảy viên bi của thằng
Đông, nó mặt như méo, còn tôi bỏ những viên bi thắng trận vào trong túi áo rồi dọt lẹ.
Mối tình đó tôi thất bại, tôi không “chim” được em Tuyền, đó cũng là điều dễ hiểu, vì tôi chơi ăn bi của thằng Đồng, nên thằng Đông chữi tôi.
Thằng Đồng chữi tôi thì làm sao tôi “chim” em nó được.