Đêm tối với Ngàn là những đêm khổ hạnh. Anh sống một mình trên cái chuồng cu thuê ở đường Huỳnh Văn Bánh.
Căn nhà lầu ba tầng, trên chót vót ở tầng thứ ba, người chủ làm một cái sân thượng,..phía sau làm một cái gác gỗ nhỏ. Để lâu ngày không ai
săn sóc, chùi rửa, lau quét, nên chuồng cu này bụi bặm bám lên một lớp dày. Người chủ thấy bất tiện nên đăng báo cho thuê với giá rẻ. Ngàn
chộp được mẫu rao vặt trên tờ báo, anh tất tả đạp xe tới, leo lên ba tầng lầu, lên hai bậc thang nữa mới tới cái chuồng cu. Người chủ sợ anh
chê, liền nói ngay:
Nếu anh ở được, cứ ở cho vui. Tôi chỉ lấy anh chút đỉnh tượng trưng.
Người chủ không đoán nổi ý Ngàn khi thấy anh trầm ngâm. Anh trầm ngâm là vì anh thích chí quá. Ở đây là một thế giới riêng biệt, có thể
ngắm sao trời và hưởng không khí trong lành. Anh có thể đứng giữa trời không mà đọc thơ ông ổng, không ai bị phiền hà, hoặc anh có thể hát
những bài tình ca vang động một góc trời. Giọng của anh, nếu có người nghe, chắc có nhiều người phẩn nộ.
Người chủ lấy tượng trưng anh mỗi tháng một trăm ngàn đồng. Thế là anh đã định cư trên cái chuồng cu này gần mười năm từ ngày anh ra trại.
Mười năm, anh đi về lầm lủi. Cất chiếc xe mobilette cà tàng trong một xó xỉnh, rồi anh bước lên tám bậc cầu thang. Có lúc say bét nhè, anh
leo lên tám bậc cầu thang, mất gần một tiếng đồng hồ.
Anh sống một mình, làm một mình, ăn một mình. Ngơ ngơ, ngác ngác. Những cơn gió lạnh làm xước hồn anh, rách tươm thân thể anh thành từng
mảng lớn.
Hôm qua, anh đem cái đơn xuất cảnh lên công an phường. Người công an phụ trách hỏi:
Sao anh đi xuất cảnh một mình?
Tôi có một mình, tôi đi một mình, chứ anh biểu tôi đi với ai nữa.
Theo lý lịch anh, tôi biết anh có gia đình.
Nhưng tôi đi cải tạo về không còn gì nữa.
Người công an cười:
Đó là anh nói với ai khác kia, chứ với cơ quan công an cái gì cũng phải có chứng minh, có giấy tờ. Bây giờ tôi chỉ căn cứ vào giấy tờ thôi.
Tôi có một yêu cầu, anh có vợ con, anh hãy làm giấy tờ cho vợ con anh đi cùng. Nếu anh đã ly hôn, anh phải có giấy ly hôn.
Ngàn bộc bạch:
Thưa anh, tôi đi cải tạo về, vợ có người tình khác, chúng tôi không sống chung nữa, vợ tôi không chấp nhận tôi, làm sao tôi nói được.
Đó là phần của anh, anh muốn hồ sơ hợp lệ chỉ có nước vậy thôi. Thôi anh về đi, khi nào hợp lệ hãy đến đây tôi ký chuyển cho anh.
Ngàn đành đem hồ sơ về.
Bây giờ anh phải làm thế nào đây? Về năn nỉ Nga cùng đứng chung hồ sơ với anh và mấy đứa con nữa. Nga, vợ anh bây giờ thế nào? Hầu như
suốt gần mấy năm nay anh không gặp Nga. Nga bận buôn bán làm ăn, Nga có người tình khác, Nga không đoái hoài gì tới anh nữa, thế mà bây giờ
anh phải về năn nỉ Nga sao? Anh thấy mình bất lực và như đang đi trên một con đường cụt.
Những buổi chiều đi bỏ hàng, gặp Thiệu, anh coi như mình bắt gặp vàng, vì hai người có hoàn cảnh giống nhau. Giấy tờ Thiệu cũng gặp muôn
vàn khó khăn, không tạm trú, không địa chỉ, Thiệu tấp về quê ở Long An. Người chú còn có lòng cho Thiệu tạm trú, những người công an biết
Thiệu từ nhỏ đã ở đây, còn căn nhà tự đường. Chỉ có một điều, người vợ không biết trôi dạt về đâu, mà hồ sơ, còn hôn thú, còn con cái, nên
công an bắt Thiệu đi tìm vợ về.
Dù cùng bỏ hàng trên một con đường, nhưng Thiệu và Ngàn, cả tháng nay không gặp nhau. May mắn lắm, họ gặp nhau thì rũ nhau nhậu. Chuyện
hồ sơ bế tắc nên hai người muốn quên, nhậu vào là quên hết, nhưng sáng mai thức
dậy nghe đau nhừ người, mở mắt ra thấy chập choạng một màu vàng choé.
Ngàn tấp xe vào sạp của Nương, Nương chuẩn bị dọn hàng về, cô hỏi:
Sao hôm nay anh đến trễ vậy?
Thì cũng bỏ hàng loanh quanh ở đây, bây giờ mới tới em.
Thì anh lúc nào cũng đến em sau rót, người ta lựa hết hàng tốt.
Đâu có được, hàng ai đặt thì để cho người đó chứ, phần em anh đem đến đủ đây này.
Anh lấy hàng cho Nương, cô gái bận chiếc áo màu xanh trông dễ thương chi lạ. Ngàn chợt nhớ đến bản nhạc của Đoàn Chuẩn-Từ Linh, Tà Áo
Xanh, khi nào em đến với anh xin đừng quên chiếc áo xanh, em ơi, có hoa nào không tàn
Nương chợt hỏi:
Hồ sơ đi Mỹ anh làm đến đâu rồi?
Thì vẫn vậy, công an bảo khai tên bà vợ và mấy đứa con cùng theo, anh thấy khó quá, chẳng lẽ bây giờ về năn nỉ bả, đã mấy năm không gặp nhau.
Giọng anh có một cái gì đó chua chát, thấm đậm buồn tủi cùng cực.
Nương nói nửa đùa nửa thực:
Không năn nỉ bả được thì năn nỉ em, em làm vợ anh được không?
Ngàn vẫn nghĩ Nương hay đùa với anh, nhưng bây giờ, câu nói của Nương, tự nhiên làm anh cảm động, anh hỏi lại:
Thật không Nương?
Em nói thật đó, nếu anh làm hôn thú với em, cưới em, dẫn em đi Mỹ thì em đồng ý.
Như vậy có một điều kiện, Nương chỉ đồng ý khi anh làm hôn thú với Nương và dẫn Nương đi Mỹ, còn không, thì không được. Như vậy thì đâu có
tình yêu?
Anh hỏi lại trong ý nghĩ bất chợt đến:
Không có tình yêu sao?
Nương cười cười:
Em nói chơi vậy thôi, anh đừng buồn em, anh về đi tìm vợ đi. Chắc chị ấy đợi anh đó, người đàn bà nào biết mình được đi Mỹ mà không ham, nhất
là anh biết xin lổi và năn nỉ chỉ.
Ngàn nghe lòng mình nhẹ tênh, không cảm xúc, hầu như anh chưa bao giờ đi đến đích với một cuộc tình nào, anh sống cô đơn là phải.
Ngàn đứng dậy:
Thôi anh về đây. Anh nghe lời em, sẽ cố gắng đi tìm vợ về.